GIÁO ÁN RÈN NHÂN CÁCH
LỚP NGŨ GIỚI - ĐỨC LY
THAM
TẬP I
Sách này chỉ kính biếu, không bán!
Qúy bạn đọc có thể thỉnh sách tại TU
VIỆN CHƠN NHƯ.
Ấn bản điện tử được đăng tải tại trang web:
http://www.thuvienthaythonglac.net
Một dược sĩ bị sát hại bởi
hai tên cướp hung hãn
Huynh đệ tương tàn vì mảnh đất
hương hỏa
Ba mươi ngàn đồng và bản án
tử hình
Chân dung kẻ giết chết bé
gái ba tuổi
Dũng cảm đối đầu với tên cướp
nguy hiểm
Đề thi 2: Đến
cửa ải mới chợt hiểu ra
Trên
thế gian này lòng tham của con người là một cái túi không đáy, chứa đựng không
biết bao nhiêu cho đầy. Vì thế, sự tham lam của con người to lớn vô cùng vô tận,
và nhiều trùng trùng điệp điệp, thật là ghê gớm!
Lòng
tham lam của con người là một tội cực ác, do lòng tham ăn, tham tiền mà con người
giết tất cả các loài động vật khác không những để ăn thịt, mà còn bán để lấy tiền
hoặc giết chết bỏ làm phân bón, làm thực phẩm gia súc, thật là lòng tham của
con người quá ác và quá tàn nhẫn.
Do
lòng tham muốn chiếm đoạt tài sản của những người khác mà con người giết con
người không gớm tay; do lòng tham lợi, tham danh của con người từ nước này đi
cướp nước khác, biết bao nhiêu sinh mạng con người chết vì chiến tranh; do lòng
tham sắc dục của con người mà tự họ phá gia đình
hạnh phúc của mình và của người khác tan nát; do lòng tham sắc dục mà con người
hiếp dâm trẻ em và làm ô nhục biết bao nhiêu phụ nữ; do lòng tham sắc dục mà
con người giết con mình bằng cách nạo phá, móc bỏ biết bao nhiêu thai nhi chết một
cách đáng thương v.v..
Lòng
tham thật là ghê gớm, thường mang đến cho loài người biết bao nhiêu tội ác và
biết bao nhiêu sự khổ đau, không sao kể hết được. Tội ác của lòng tham nó không
từ bất cứ một người nào. Con bất hiếu cũng từ lòng tham, anh em ruột thịt chia
lìa
ly tán cũng từ lòng tham, vợ chồng ly dị con cái mất cha mất mẹ cũng từ lòng
tham, chiến tranh thế giới từ nước này đến nước khác, người giết hại lẫn nhau
trùng trùng lớp lớp cũng từ lòng tham,
v.v..
Đứng
đầu trong ngũ triền cái là lòng tham. Lòng tham đó gọi là tham triền cái, nó là
pháp ác thứ nhất. Người đệ tử của Phật cần phải đề cao cảnh giác tâm mình khi
nó móng khởi một niệm nào thì hãy
mau mau quán xét cho thật kỹ xem nó thuộc về loại tham lam nào để dùng đức ly
tham diệt ngay tức khắc.
Chúng
ta thường nghe đức Phật dạy: “Trong mỗi con người có ba nọc độc: Tham độc, Sân
độc, Si độc”. Và trong mỗi người có ba tùy miên: “Tham tùy miên, Sân tùy miên,
Si tùy miên”. Đó là những pháp khiến con người sống đầy tội ác. Chúng ta cần phải
học cho thông suốt.
Ba
ác pháp tham, sân, si này luôn luôn ngự trị trong tâm chúng ta, hễ có đối tượng
thì nó ló mặt ra tức khắc, nếu chúng ta không đủ sức bình tĩnh thì nó triền miên duy trì
măi măi trong tâm, chúng ngầm ngầm như lửa than không thấy ánh sáng, nhưng nó vẫn
cháy liên tục, không gián đoạn.
Vừa
rồi chúng ta học đức hiếu sinh để đối trị tâm tham, sân, si, mạn, nghi. Nếu người
nào biết áp dụng vào cuộc sống của mình thì đã chuyển sạch. Con đường giải
thoát ở trước mắt của mình.
Hôm
nay chúng ta học đức thứ hai. Đức thứ hai này chúng ta cần phải tu học và rèn
luyện nhân cách của mình để thoát ra tam độc. Đó là đức Ly Tham, người nào biết
ly tham là người đó tự mang đến cho mình một tâm hồn thanh thản, an lạc và vô sự.
Bởi
vì, con người do tâm tham mà chịu nhiều khổ đau, muốn chấm dứt khổ đau không gì
hơn là phải diệt trừ tâm tham; muốn diệt trừ tâm tham thì chỉ có sự hiểu biết
các pháp vô thường, khổ, vô ngă, không có pháp nào là ta, là của ta, là bản ngă
của ta. Do sự hiểu biết thật như vậy thì tâm chúng ta không còn chỗ bám, dù có
bám nó, nó cũng chẳng có cái gì là của ta thì bám làm gì cho uổng công. Nhờ thấu
suốt hiểu rõ
như vậy nên không ly tham mà nó đă tự ly tham.
Trong
cuộc sống hằng ngày nếu tâm chúng ta chỉ còn ưa thích một chút xíu điều gì như
món ăn, chiếc áo,
cái khăn, cây bút,
v.v.. là chúng ta biết tâm mình còn tham lam, mà còn tâm tham lam là tâm còn
đau khổ.
Ở
đây, đức Phật dạy chúng ta nên sống với đức hạnh ly tham để thoát ra mọi sự khổ
đau, đó là, mục đích của tập sách này.
Lìa
được tâm tham không phải là dễ, cho nên ngay từ những phút đầu tiên chúng ta học
giới luật này cần phải hiểu cho rõ
ràng và áp dụng vào đời sống hằng ngày với đức ly tham không nên
biếng trễ.
Đức
ly tham từ bỏ lấy của không cho mà đức Phật đă dạy chúng ta giới thứ hai trong
Ngũ Giới: “Cấm gian tham trộm cắp, không nên lấy của không cho”. Câu đầu là một
pháp luật như luật thế gian người tu sĩ phạm vào giới này được xem là phạm vào
tội tử hình, nhưng câu sau chỉ là một lời khuyên nhẹ nhàng, nếu ai nghe theo lời
khuyên này sống không lấy của không cho thì ngay đó là chúng ta sống với đức ly
tham, sống với đức ly tham sẽ được giải thoát ngay liền và hoàn toàn giải thoát
ra khỏi sáu nẻo luân hồi và chấm dứt mọi sự khổ đau trong cuộc đời này.
Tóm
lại lòng tham lam của con người đă đưa con người vào biển khổ, “Nước mắt chúng
sinh nhiều hơn nước biển”. Đó là lời xác định của đức Phật, sự đau khổ của
chúng sinh vô cùng vô tận không sao kể hết được. Vậy muốn thoát ra bể khổ chúng
ta phải hết sức tu học đức Ly Tham để đem lại sự bình an cho mình, cho người và
cho vạn vật trên hành tinh này.
Kính ghi,
Trưởng lão Thích Thông Lạc
BÀI HỌC THỨ NHẤT:
RÈN NHÂN CÁCH
GIỚI THỨ HAI:
Đây là bài học giới luật
thứ hai trong ngũ giới: “CẤM GIAN THAM TRỘM CẮP”. Nhưng đạo Phật là đạo tự nguyện,
tự giác, không bắt buộc và không dùng quyền lực cưỡng chế ai cả, nên đức Phật
dùng lời khuyên: “KHÔNG NÊN LẤY CỦA KHÔNG CHO”, hay: “TỪ BỎ LẤY CỦA KHÔNG CHO”.
Chúng tôi cảm thấy đức Phật là một nhà tâm lý học tuyệt vời. Khi bước vào học giới thứ nhất
thì đức Phật khuyên: “KHÔNG NÊN GIẾT HẠI CHÚNH SINH”, rồi dạy chúng ta RÈN
LUYỆN NHÂN CÁCH ĐỨC HIẾU SINH.
Thấm nhuần được lòng yêu thương, tâm hồn chúng ta vô cùng sung sướng, buông xả
rất nhiều những ác pháp thô. Tất cả những pháp ác thô chúng ta đã ly sạch, chỉ
còn những pháp ác vi tế. Nhưng đến giới thứ hai thì đức Phật dạy chúng ta xa
lìa những tâm tham lam bằng giới luật TỪ BỎ LẤY CỦA KHÔNG
CHO.
Từ bỏ lấy của không cho là một lời khuyên nhẹ
nhàng của đức Phật, khiến cho chúng ta nghe đến từ LY
THAM rất thấm thía, nhưng nó
là một hành động ĐẠO ĐỨC LY THAM rất tuyệt vời.
Vốn con người sinh ra là do duyên ái dục của cha
mẹ, cho nên từ khi còn trứng nước, nằm trong bụng mẹ đã có tâm tham, sân, si, mạn,
nghi rồi. Chứ không như đức Khổng Phu Tử nói: “Nhân chi sơ tính bổn thiện”. Lời nói này chứng tỏ đức Khổng Tử
không hiểu nguồn gốc nhân quả nghiệp báo. Không hiểu nguồn gốc nhân quả nghiệp
báo thì không thể hiểu thế giới quan vũ trụ của Phật giáo được. Không thể hiểu
thế giới quan vũ trụ của Phật giáo thì không thể hiểu 12 nhân duyên tạo nên vũ
trụ này. Theo Phật giáo xác định rất rõ: Vạn vật được sinh ra trong vũ trụ này
có nhiều hình tướng và tâm tính khác nhau là do nhân quả thiện ác, nghiệp báo
khác nhau. Chứ không phải do một đấng vạn năng, hay một đấng tạo hóa, hoặc một
vị Ngọc Hoàng Thượng Đế nào tạo ra vạn vật, tạo ra sự sống trên hành tinh này
được, mà chính theo qui luật nhân quả vận hành tạo ra các duyên, khi các duyên
hội đủ điều kiện tác dụng vào nhau hợp thành sinh ra vạn vật. Cho nên vạn vật
có mặt trên hành tinh này đều do 12 nhân duyên hợp lại mà thành.
Mười hai nhân duyên gồm có:
1-
Duyên vô minh.
2-
Duyên hành.
3-
Duyên thức.
4-
Duyên danh sắc.
5-
Duyên lục nhập.
6-
Duyên xúc.
7-
Duyên thọ.
8-
Duyên ái.
9-
Duyên thủ.
10-
Duyên hữu.
11-
Duyên sinh.
12-
Duyên ưu bi, sầu khổ, bệnh
chết.
Một lần nữa, chúng ta khẳng định tất cả vạn vật
đều sinh ra là do 12 nhân duyên này. Do 12 nhân duyên này mới tạo tác hợp lại
thành vạn vật trong vũ trụ. Đất đá núi sông cũng đều do 12 nhân duyên này tạo
ra. Thế giới quan của Phật giáo đơn giản thiết thực cụ thể như vậy, chứ không
phải trong thế giới quan có thế giới siêu hình như các nhà tôn giáo và các nhà ảo
tưởng nghĩ ra cho rằng: Trong thế giới quan có một thế giới siêu hình, trong thế
giới siêu hình có một đấng tạo hóa đang sáng tạo và sinh ra loài người và muôn
loài vật. Và đấng tạo hóa đó đang cầm quyền sinh sát xử phạt muôn loài vạn vật
trên hành tinh này.
Chúng tôi là những người ưa chuộng sự thật, bằng
những chứng minh khoa học cụ thể. Cho nên, những điều ảo tưởng viễn vông chúng tôi bỏ ngoài tai. Vì chúng tôi biết
rõ qui luật nhân quả thiện ác thường làm thay đổi chuyển biến, không có một
pháp nào đứng yên một chỗ bất di bất dịch, thường hằng không thay đổi trong vũ
trụ này. Do sự vô thường này đã làm cho muôn loài sống trên hành tinh đau khổ,
nhất là loài người lại còn đau khổ hơn các loài vật khác. Muốn cho loài người
thoát ra mọi sự đau khổ này, nên đức Phật xây dựng cho loài người nền đạo đức
nhân bản - nhân quả để chuyển đổi qui luật nhân quả, hay nói cách khác là làm
chủ nhân quả, có nghĩa là nhân quả không còn chi phối điều khiển được con người.
Nhờ đó con người mới làm chủ nhân quả hoàn toàn, tức là làm chủ sự sống chết,
chấm dứt tái sinh luân hồi.
Vì thế, giáo lý thiện pháp của nhà Phật ra đời với
toàn bộ giới luật đức hạnh nhân bản. Hôm nay chúng ta đang học Ngũ Giới, tức là
đang học năm đức hạnh của người đệ tử cư sĩ Phật đầu tiên mới bước chân vào con
đường rèn luyện nhân cách.
Đức ly tham là giới luật thứ hai trong ngũ giới,
nếu một người giữ trọn giới luật này là đã thấy tâm mình giải thoát không còn
tham, sân, si, mạn, nghi nữa.
Đời người khổ đau là vì tâm tham, nếu chúng ta
lìa tâm tham thì làm sao còn đau khổ được nữa. Phải không quý vị?
Chúng ta thấy trộm cắp, cướp của giết người là
do gốc tâm tham mà xảy ra, từ gốc tham lam mang đến biết bao nhiêu sự khổ đau
cho con người. Bởi vậy tâm tham là một pháp cực ác, từ khi con người có mặt
trên hành tinh này thì họ đã mang theo lòng tham lam, vì thế mọi sự đau khổ đều
do nó.
Do đó chúng ta thấy rất rõ đường đi của Phật
giáo là con đường mang đến sự an vui, giải thoát cho loài người. Con đường đó
là con đường thiện. Con đường thiện là con đường đạo đức nhân bản nhân quả; con
đường đạo đức nhân bản - nhân quả là con đường ĐẠO ĐỨC LY THAM.
Trong xã hội loài người, nếu người nào cũng được
học đức ly tham thì làm sao có những tệ nạn xã hội như: Cướp của giết người, trộm
cắp móc túi, hối lộ ăn lo, gian tham lừa đảo lường gạt người bằng đủ mọi ngành
nghề: Cờ gian, bạc lận, cá cược, mãi dâm, rượu chè hút xách, buôn thần bán
thánh tạo dựng cảnh mê tín cướp giật tiền giữa ban ngày ban mặt mà không ai bắt
bớ họ được.
Từ bỏ lấy của không cho là đức hạnh ly tham rất
tuyệt vời. Ta nên suy nghĩ: Ta mất của ta
cũng khổ đau và người mất của người cũng khổ đau, cớ sao ta lại nỡ nhẫn tâm lấy
của người khác. Cho nên nhất định ta sẽ không lấy của không cho, dù cây kim sợi
chỉ chẳng đáng là bao nhiêu nhưng ta cũng không lấy khi người ta không cho.
Khi lấy của người không cho là mang tiếng suốt đời
“ăn cắp, ăn trộm”, còn nếu không lén lấy mà xông vào cướp giật tiền bạc của cải
của người khác thì mang tiếng là “bọn ăn cướp”.
Ăn không ngồi rồi mà đi ăn trộm, ăn cướp của cải
tài sản của người khác là những người vô đạo đức, những người xấu xa, hèn hạ,
v.v..
Làm con người cần phải tránh xa những hành động
lấy của không cho, vì những hành động trộm cắp, cướp giật của cải tài sản là
làm cho mọi người đều chán ghét, đều ghê tởm, đều sợ hãi, v.v..
Nhất định làm người chúng ta phải sống với đức
ly tham, vì đức ly tham làm cho chúng ta trở thành con người cao thượng. Trong
đức ly tham nó mang đầy đủ lòng yêu thương đa hướng đối với mọi người và mọi
loài, nó đem lại cho chúng ta một lòng yêu thương nhau chan hòa. Cho nên người
ly tham là người sống hạnh phúc nhất trần gian. Tại sao vậy?
Tại vì đức ly tham giúp chúng ta không còn dính
mắc các pháp trên thế gian này. Khi đức ly tham ngự trị trong tâm chúng ta thì
các pháp trên thế gian này không còn pháp nào đủ sức cám dỗ lôi cuốn chúng ta
được. Cho nên khi chúng ta nhận xét tâm mình còn ham thích điều gì thì chúng ta
biết ngay đức ly tham sẽ không còn trong tâm nữa. Vì vậy chúng phải tác ý ngay:
“Tâm không được ham thích, phải chấm dứt
ngay liền”. Nhờ có tác ý như vậy thì đức ly tham mới trở lại trong tâm ta.
Cho nên người tu tập phải siêng năng, khi thấy một niệm mống khởi ưa thích thì
chúng ta phải mau mau tác ý dừng lại. Có siêng năng tu tập như vậy thì chúng ta
mới sống trọn vẹn với đức ly tham.
Một người tu theo Phật giáo mà lười biếng thì
không thể nào thành tựu sự giải thoát. Thành tựu giải thoát của Phật giáo là phải
siêng năng hằng ngày diệt trừ lòng tham, sống với đức ly tham và đức hiếu sinh.
BÀI HỌC THỨ HAI:
RÈN NHÂN CÁCH
ĐẠO ĐỨC LY THAM Ý HÀNH, THÂN HÀNH, KHẨU HÀNH:
Ngày giáp Tết,
đứng trước bàn thờ tạm bợ của người chồng, bà Nguyễn Thị Hợi (75 tuổi) không giấu
được những giọt nước mắt nghẹn ngào, chua xót. Bởi lẽ đứa con trai mà bà hết
lòng thương yêu, tin tưởng đã nhẫn tâm với bà: “Tôi chết lặng khi nó làm đơn trục xuất tôi và em nó ra khỏi nhà”.
Bà thì thào qua dòng nước mắt tuôn trào!
Năm 1954, ông
Nguyễn Văn Thành kết hôn với bà Nguyễn Thị Hợi. Trong quá trình chung sống, họ
đã có với nhau bảy người con. Theo lời bà Hợi, để có tiền chi tiêu trong gia
đình, ông Thành đã mở cơ sở giày dép tại 597 H, lô T, Đoàn Văn Bơ, Quận 4, sau
đó chuyển về địa chỉ 98/55 Đoàn Văn Bơ. Các con của ông Thành một số làm công
ăn lương tại cơ sở, một số đi làm ở ngoài. Riêng ông Nguyễn Sơn Hà, con trai thứ,
là người có công nhiều nhất cho cơ sở giày dép. Năm 1985, ông Hà trúng số được
một lượng vàng cũng tích góp vào xưởng để kinh doanh. Năm 1998, ông Thành qua đời,
ông Hà tiếp quản cơ sở giày dép và làm thủ tục chuyển tên đăng ký kinh doanh
cho mình. Vào năm 1999, sau khi ông Thành mất, bà Hợi đã đưa một số tiền lớn mà
gia đình đã làm lụng vất vả nhiều năm cho ông Hà để xây căn nhà số 73/8C, đường
Lâm Văn Bền, Quận 7. Rồi ông Hà tiếp tục dùng tiền thu được từ hoạt động kinh
doanh để mua thêm vài lô đất nữa. Ông Hà lặng lẽ đứng tên những lô đất và quyền
sở hữu nhà rồi lật ngược thế cờ, đuổi cả mẹ và đứa em trai ra khỏi nhà... Biết
bao lần bà thoi thóp thở trong bệnh viện vì nỗi uất nghẹn về đứa con trai mà
mình đã mang nặng đẻ đau và đặt trọn niềm tin tưởng. Rời khỏi căn nhà mà đứa
con trai đã đang tâm đuổi mình, bà Hợi chẳng kịp mang theo gì cả, cái bàn thờ của
ông chồng bà vẫn còn nằm nguyên ở đó vì ông Hà đã thay khóa mới.
Không thể chấp
nhận hành vi của ông Hà, bà Hợi đã cùng một số người con trong gia đình gởi đơn
yêu cầu tòa án đưa vụ tranh chấp tài sản ra xét xử. Ngày 28/6/2006, tòa phúc thẩm
TANDTC TPHCM đã tuyên xử: Chấp nhận một phần yêu cầu của bà Hợi, buộc ông Nguyễn
Sơn Hà và bà Phạm thị Thanh Vân - vợ ông Hà phải thanh toán cho bà Hợi 11,45 lượng
vàng SJC và 130.909.000 đồng. Còn tất cả những yêu cầu khác của bà Hợi muốn lấy
lại quyền sở hữu nhà và một số lô đất mà theo bà Hợi đó là một số tài sản chung
của gia đình đều bị tòa án bác bỏ. Bởi lẽ ông Nguyễn Sơn Hà đã chứng minh tất cả
tài sản đó là của riêng mình bằng những giấy chứng nhận quyền sử dụng, quyền sở
hữu hợp pháp. Trước tòa, ông Hà đã khẳng định cơ sở giày dép là toàn bộ tài sản
của riêng ông. Sau khi cha mất, vợ chồng ông Hà đã nhờ bà Hợi giữ tiền dùm. Nên
toàn bộ tiền mua đất, xây dựng nhà là tiền của vợ chồng ông, không liên quan đến
bà Hợi.
Trong phiên
tòa hôm ấy, nhiều người con đã nghẹn ngào nhắc lại lời bố dặn trước lúc lâm
chung: “Bố chết đi, chỉ mong các con luôn
thuận hoà, đừng chia lìa nhau, đừng để gia đình lâm vào cảnh tan đàn xẻ nghé”.
Bà Hợi cùng một vài người con phải ôm tập hồ sơ đi kêu cứu nhiều nơi, khiếu nại
ông Hà. Tập thể bà con khu phố ở phường Tân Thuận Tây, quận 7 đã gởi đơn lên
tòa án nhân dân quận 7, đồng kính xin tòa án xét xử đem lại sự công bằng cho bà
Hợi, vì ông Hà đã lợi dụng sự dễ dãi của mẹ mình để chiếm đoạt tài sản. Thế
nhưng ông Hà đã thắng kiện vì có đầy đủ giấy tờ trong tay. Nhiều năm nay, bà Hợi
sống dở chết dở vì nỗi đau mà ông Hà gây ra. Hôm tòa mở phiên xét xử, bà Hợi đã
xin phép được vắng mặt vì chịu làm sao nổi cú sốc đó: “Đến tòa chắc tôi chết mất”. Tòa tuyên xử bà Hợi được chia 1/11
trong số tài sản ông Hà đang nắm giữ. Nhưng tám tháng đã trôi qua, bà Hợi vẫn
chưa nhận được số tiền mà ông Hà và bà Vân phải thanh toán. Bà Hợi đã hai lần gởi
đơn yêu cầu thi hành án, nhưng tất cả chỉ rơi vào im lặng. Bà Hợi đã làm đơn khởi
kiện vụ tranh chấp tài sản giữa bà và ông Hà lên tòa án quận 7. Trong quá trình
thụ lý vụ án hơn một năm, ông Hà vẫn được cấp chủ quyền nhà khi ngôi nhà đang
thuộc diện tranh chấp.
Ngày ngày bà
Hợi vẫn ngồi thẫn thờ trong ngôi nhà của người anh cả. Nỗi đau âm ỉ, giằng xé
tâm can bà lại khóc, lại nhập viện. Bà Hợi biết rằng ông Hà “không chịu thi hành án... Chỉ vì nó đợi tôi
chết để số tiền đó nó không phải hoàn trả lại cho tôi...”. Chẳng lẽ các cơ
quan chức năng và tòa án các cấp có thể làm ngơ với nỗi đau của bà Hợi?
Mỹ Thanh -
Hoàng Tuyết
(Báo Công An số 1522, Thứ năm
01/3/2007)
--o0o--
1-
“Ngày giáp Tết, đứng
trước bàn thờ tạm bợ của người chồng, bà Nguyễn Thị Hợi (75 tuổi) không giấu được
những giọt nước mắt nghẹn ngào, chua xót. Bởi lẽ đứa con trai mà bà hết lòng
thương yêu, tin tưởng đã nhẫn tâm với bà: “Tôi
chết lặng khi nó làm đơn trục xuất tôi và em nó ra khỏi nhà”. Bà thì thào qua
dòng nước mắt tuôn trào!”. Đoạn này nói lên thiếu đạo đức gì?
2-
“Năm 1954, ông Nguyễn Văn Thành kết hôn với bà Nguyễn Thị Hợi. Trong quá
trình chung sống, họ đã có với nhau bảy người con. Theo lời bà Hợi, để có tiền
chi tiêu trong gia đình, ông Thành đã mở cơ sở giày dép tại 597 H, lô T, Đoàn
Văn Bơ, Quận 4, sau đó chuyển về địa chỉ 98/55 Đoàn Văn Bơ. Các con của ông
Thành một số làm công ăn lương tại cơ sở, một số đi làm ở ngoài. Riêng ông Nguyễn
Sơn Hà, con trai thứ, là người có công nhiều nhất cho cơ sở giày dép. Năm 1985,
ông Hà trúng số được một lượng vàng cũng tích góp vào xưởng để kinh doanh. Năm
1998, ông Thành qua đời, ông Hà tiếp quản cơ sở giày dép và làm thủ tục chuyển
tên đăng ký kinh doanh cho mình. Vào năm 1999, sau khi ông Thành mất, bà Hợi đã
đưa một số tiền lớn mà gia đình đã làm lụng vất vả nhiều năm cho ông Hà để xây
căn nhà số 73/8C, đường Lâm Văn Bền, quận 7. Rồi ông Hà tiếp tục dùng tiền thu
được từ hoạt động kinh doanh để mua thêm vài lô đất nữa”. Đoạn này nói lên đạo đức gì?
3-
“Ông Hà lặng lẽ đứng tên những lô đất và quyền sở hữu nhà rồi lật ngược thế
cờ, đuổi cả mẹ và đứa em trai ra khỏi nhà...”. Đoạn này nói
lên đạo đức gì?
4-
“Biết bao lần bà thoi thóp thở trong bệnh viện vì nỗi uất nghẹn về đứa con
trai mà mình đã mang nặng đẻ đau và đặt trọn niềm tin tưởng. Rời khỏi căn nhà
mà đứa con trai đã đang tâm đuổi mình, bà Hợi chẳng kịp mang theo gì cả, cái
bàn thờ của ông chồng bà vẫn còn nằm nguyên ở đó vì ông Hà đã thay khóa mới”. Đoạn này nói lên đạo đức gì?
5-
“Không
thể chấp nhận hành vi của ông Hà, bà Hợi đã cùng một số người con trong gia
đình gởi đơn yêu cầu tòa án đưa vụ tranh chấp tài sản ra xét xử. Ngày
28/6/2006, tòa phúc thẩm TANDTC TPHCM đã tuyên xử: Chấp nhận một phần yêu cầu của
bà Hợi, buộc ông Nguyễn Sơn Hà và bà Phạm thị Thanh Vân - vợ ông Hà phải thanh
toán cho bà Hợi 11,45 lượng vàng SJC và 130.909.000 đồng. Còn tất cả những yêu
cầu khác của bà Hợi muốn lấy lại quyền sở hữu nhà và một số lô đất mà theo bà Hợi
đó là một số tài sản chung của gia đình đều bị tòa án bác bỏ. Bởi lẽ ông Nguyễn
Sơn Hà đã chứng minh tất cả tài sản đó là của riêng mình bằng những giấy chứng
nhận quyền sử dụng, quyền sở hữu hợp pháp. Trước tòa, ông Hà đã khẳng định cơ sở
giày dép là toàn bộ tài sản của riêng ông. Sau khi cha mất, vợ chồng ông Hà đã
nhờ bà Hợi giữ tiền dùm. Nên toàn bộ tiền mua đất, xây dựng nhà là tiền của vợ
chồng ông, không liên quan đến bà Hợi”. Đoạn này nói lên đạo đức gì?
6-
“Trong phiên tòa hôm ấy, nhiều người con đã nghẹn ngào nhắc lại lời bố dặn
trước lúc lâm chung: “Bố chết đi, chỉ mong các con luôn thuận hoà, đừng chia
lìa nhau, đừng để gia đình lâm vào cảnh tan đàn xẻ nghé”. Đoạn này nói lên đạo đức gì?
7-
“Bà Hợi cùng một vài người con phải ôm tập hồ sơ đi kêu cứu nhiều nơi, khiếu
nại ông Hà. Tập thể bà con khu phố ở phường Tân Thuận Tây, quận 7 đã gởi đơn
lên tòa án nhân dân quận 7, đồng kính xin tòa án xét xử đem lại sự công bằng
cho bà Hợi, vì ông Hà đã lợi dụng sự dễ dãi của mẹ mình để chiếm đoạt tài sản.
Thế nhưng ông Hà đã thắng kiện vì có đầy đủ giấy tờ trong tay”. Đoạn này nói lên đạo đức gì?
8-
“Nhiều năm nay, bà Hợi sống dở chết dở vì nỗi đau mà ông Hà gây ra. Hôm
tòa mở phiên xét xử, bà Hợi đã xin phép được vắng mặt vì chịu làm sao nổi cú sốc
đó: “Đến tòa chắc tôi chết mất”. Đoạn này nói lên đạo đức
gì?
9-
“Tòa tuyên xử bà Hợi được chia 1/11 trong số tài sản ông Hà đang nắm giữ.
Nhưng tám tháng đã trôi qua, bà Hợi vẫn chưa nhận được số tiền mà ông Hà và bà
Vân phải thanh toán. Bà Hợi đã hai lần gởi đơn yêu cầu thi hành án, nhưng tất cả
chỉ rơi vào im lặng. Bà Hợi đã làm đơn khởi kiện vụ tranh chấp tài sản giữa bà
và ông Hà lên tòa án quận 7. Trong quá trình thụ lý vụ án hơn một năm, ông Hà vẫn
được cấp chủ quyền nhà khi ngôi nhà đang thuộc diện tranh chấp”. Đoạn này nói lên đạo đức gì?
10- “Ngày ngày bà Hợi vẫn ngồi thẫn thờ
trong ngôi nhà của người anh cả. Nỗi đau âm ỉ, giằng xé tâm can bà lại khóc, lại
nhập viện. Bà Hợi biết rằng ông Hà “không chịu thi hành án... Chỉ vì nó đợi tôi
chết để số tiền đó nó không phải hoàn trả lại cho tôi...”. Chẳng lẽ các cơ quan chức năng và
tòa án các cấp có thể làm ngơ với nỗi đau của bà Hợi?”. Đoạn này nói lên đạo
đức gì?
--o0o--
1-
“Ngày giáp Tết, đứng
trước bàn thờ tạm bợ của người chồng, bà Nguyễn Thị Hợi (75 tuổi) không giấu được
những giọt nước mắt nghẹn ngào, chua xót. Bởi lẽ đứa con trai mà bà hết lòng
thương yêu, tin tưởng đã nhẫn tâm với bà: “Tôi
chết lặng khi nó làm đơn trục xuất tôi và em nó ra khỏi nhà”. Bà thì thào qua
dòng nước mắt tuôn trào!”. Đoạn này nói lên THIẾU ĐỨC LY THAM HIẾU THẢO
THÂN HÀNH.
Câu chuyện trên
đây là một sự thật mà báo chí đã đăng tin tức này. Trong xã hội hiện nay những
chuyện bất hiếu này thường xảy ra như ăn cơm bữa.
Đúng vậy, lòng
tham của con người không đáy. Nó biến con người trở thành vô đạo đức, quên cả
công ơn sinh thành dưỡng dục của mẹ cha.
Vì lòng tham nhà
cửa, đất đai, của cải, tài sản, mà đành lòng đuổi mẹ ra khỏi nhà thật là bất hiếu.
Nỗi đau của người
mẹ bị con trai mình trục xuất ra khỏi nhà thì không có nỗi đau nào hơn. Phải
không quý vị?
Đây, các tu sinh
đọc qua câu chuyện này mới thấy rõ lòng tham của con người thật là ghê gớm, khi
lòng tham ngự trị trong tâm hồn của họ thì họ quên hết ơn nghĩa. Dù là công ơn
sinh thành mang nặng đẻ đau, nuôi dạy con lớn khôn như trời như biển. “Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước
trong nguồn chảy ra”, thế mà họ đâu còn nhớ gì, khi lòng tham ngự trị trong
lòng thì họ đều quên hết. Câu chuyện trên đây là một bằng chứng cụ thể để thấy
lòng tham của con người ghê gớm thật và xã hội chúng ta đạo đức đang xuống cấp
trầm trọng.
Nhìn thấy cảnh
này chúng ta là những người con của Phật thì phải theo lời dạy của Người: Lúc
nào, hay giờ nào chúng ta đều sống với đức ly tham. Đức ly tham sẽ giúp chúng
ta có một tâm hồn biết buông xả, không đắm mê vật chất của cải tài sản, vì càng
lắm nhiều của cải tài sản thì càng lắm nhiều gian nan và nhiều tai họa khổ đau
sẽ đến với chúng ta.
Đức ly tham là một
đức hạnh tuyệt vời. Chúng ta nên xem xét lại đời sống của đức Phật ngày xưa. Ai
cũng biết đức Phật là con trai độc nhất của vua Tịnh Phạn và sắp sửa thay vua
cha lên ngôi báu. Trong khi vua cha tìm mọi cách để giữ Ngài, nhưng Ngài không
màng danh lợi, buông bỏ như buông bỏ một chiếc giày rách. Khi đi tu, cung vàng
điện ngọc, vợ đẹp, con xinh Ngài đều buông xuống cả. Cuộc sống của Ngài lúc bấy
giờ chỉ còn ba y một bát, chân trần, hằng ngày đi xin cơm của mọi người, mọi
nhà, nhưng tâm hồn Ngài phóng khoáng như hư không, trắng bạch như vỏ ốc, sống
không nhà cửa, không gia đình, lấy trời làm màn, lấy gốc cây làm gối, lấy trăng
sao làm đèn, lấy gió làm quạt, v.v.. Cuộc đời của Ngài đâu còn gì nữa, đói thì
đi xin ăn, đi xin không có thì ngồi thiền, bệnh đau thì dùng pháp mà đối trị.
Cuộc đời Ngài sống thanh thản, an lạc và vô sự. Cuộc đời danh lợi, tiền bạc,
ngôi báu, vợ đẹp con xinh không còn trói buộc Ngài được nữa.
Còn người đời tâm
tham lam ngút ngàn, muốn ngồi không mà có tiền của, vì thế làm mọi cách gian
tham xảo quyệt để thu góp cho nhiều tiền tài vật chất, có người lại trực tiếp
đi ăn trộm, ăn cắp hoặc cướp giật của người khác để thọ hưởng; bệnh đau thì rên
la, kêu khóc, đi bác sĩ, nằm nhà thương, đi bệnh viện Đông, Tây y, thuốc thang
uống, chích, châm cứu, v.v..
Còn đức Phật thì
tự tại thung dung, đói no chẳng sợ, bệnh tật không làm dao động được tâm Ngài.
Một hôm Ngài đi
khất thực, có một bác nông dân đang cày dưới ruộng chạy đến bên Ngài và nhìn
vào trong bát rồi bảo rằng: “Ngài đi xin
không có ai cho Ngài đâu! Ngài hãy trở về cày ruộng như chúng tôi thì cơm ăn áo
mặc đầy đủ”.
Đức Phật im lặng
không nói một lời nào và tiếp tục ôm bát đi xin. Đến khi trở về, người nông lúc
nãy cũng chạy đến bên Phật, lật nắp bát ra xem chỉ là một chiếc bát không, người
nông dân nói: “Ngài thấy chưa? Tôi đã bảo
cày ruộng như tôi thì cơm ăn áo mặc đầy đủ, không phải yên tâm sao? Còn bây giờ
Ngài đi xin không ai cho phải chịu đói khát khổ sở vô cùng”.
Đức Phật từ tốn
trả lời: “Ngươi tưởng Ta cần những thức
ăn này lắm sao? Nếu đói Ta chỉ ngồi thiền thì làm sao còn đói được nữa. Thiền
duyệt vi thực pháp hỷ sung mãn kia mà. Ta vì chúng sinh quá đau khổ mà đi khất
thực để gieo duyên hoá độ, chứ không vì chúng sinh thì Ta đã nhập Niết Bàn từ
lâu rồi. Cuộc đời này có còn những gì cám dỗ được ta đâu?”.
Nghe xong, người
nông dân quỳ xuống dưới chân đức Phật xin sám hối những tội lỗi của mình đã vô
minh nói ra những lời khinh mạn và cũng xin đức Phật cho làm đệ tử cư sĩ tại
gia, quyết tâm giữ gìn năm giới.
Còn bệnh đau thì
sao? Chúng ta hãy nghe đức Phật dùng pháp trị bệnh. Một hôm trên đường đến nơi
để nhập Niết bàn, đức Phật nay đã già yếu, 80 tuổi rồi, nên một cơn bạo bệnh ập
đến, đức Phật phải trụ lại giữa đường để đối trị cơn bệnh ngặt nghèo đau buốt cả
cơ thể. Ngài ngồi kiết già lưng thẳng, nhiếp tâm an trú tỉnh thức trong hơi thở
ra vô và tác ý đẩy lui bệnh, nhờ đó cơn đau không còn tấn công Ngài được nữa,
Ngài bình phục và tiếp tục đi đến nơi nhập Niết bàn. Xin quý vị vui lòng hãy đọc
lại kinh Niết Bàn trong kinh Trường Bộ tập I thì rõ.
Đấy, quý vị có thấy
cuộc đời tu hành của đức Phật đã thoát ra bốn cái khổ mà người thế gian không
thể làm được không?
1-
Làm chủ được đời sống ăn uống.
2-
Làm chủ được bệnh đau.
3-
Già yếu nhưng còn mạnh khỏe, đi bộ vững
vàng.
4-
Làm chủ sự sống chết.
Đó chính là nhờ
Ngài sống với đức ly tham. Do đức ly tham nên Ngài bỏ cung vàng điện ngọc, vợ đẹp
con xinh như bỏ những đồ phế thải.
--o0o--
2-
“Năm 1954, ông Nguyễn Văn Thành kết hôn
với bà Nguyễn Thị Hợi. Trong quá trình chung sống, họ đã có với nhau bảy người
con. Theo lời bà Hợi, để có tiền chi tiêu trong gia đình, ông Thành đã mở cơ sở
giày dép tại 597 H, lô T, Đoàn Văn Bơ, Quận 4, sau đó chuyển về địa chỉ 98/55
Đoàn Văn Bơ. Các con của ông Thành một số làm công ăn lương tại cơ sở, một số
đi làm ở ngoài. Riêng ông Nguyễn Sơn Hà, con trai thứ, là người có công nhiều
nhất cho cơ sở giày dép. Năm 1985, ông Hà trúng số được một lượng vàng cũng
tích góp vào xưởng để kinh doanh. Năm 1998, ông Thành qua đời, ông Hà tiếp quản
cơ sở giày dép và làm thủ tục chuyển tên đăng ký kinh doanh cho mình. Vào năm
1999, sau khi ông Thành mất, bà Hợi đã đưa một số tiền lớn mà gia đình đã làm lụng
vất vả nhiều năm cho ông Hà để xây căn nhà số 73/8C, đường Lâm Văn Bền, quận 7.
Rồi ông Hà tiếp tục dùng tiền thu được từ hoạt động kinh doanh để mua thêm vài
lô đất nữa”. Đoạn này nói lên ĐỨC TINH TẤN NHÂN QUẢ.
Trong cuộc đời
này, sống lương thiện không gian tham, không xảo quyệt lừa đảo người, lấy mồ
hôi nước mắt và công sức của mình siêng năng làm ra của cải tài sản, đó là ĐỨC
LY THAM. Làm ra của cải tài sản, dù cho giàu có đến đâu cũng không tham đắm và
dính mắc những vật chất đó cũng là ĐỨC LY THAM.
Cả gia đình con
cái của ông bà Thành đều lo tích lũy làm ăn chân chất, cơ sở vật chất càng đi lên,
của cải tài sản đất đai càng nhiều, thì tâm tham cũng càng lớn theo, do đó mới
có những sự tranh chấp xảy ra, mới có sự kiện tụng. Nếu trong giai đoạn này cả
gia đình ông bà Thành đều được học ĐẠO ĐỨC LY THAM thì tài sản gia đình này
càng đi lên với sự siêng năng cần mẫn làm ăn lương thiện thì đâu có việc gì xảy
ra. Phải không quý vị?
Đồng tiền và của
cải tài sản làm mờ mắt, khơi dậy lòng tham chiếm hữu làm của riêng mình, cho
nên nó đã giết chết đạo đức hiếu thảo làm người. Ông Hà cũng chỉ là một con người
như bao nhiêu con người khác, biết chí thú làm ăn để làm giàu. Nhưng chính vì
tham nhà cửa, đất đai, vật chất, nên công ơn sinh thành của cha mẹ đã quên mất,
tình nghĩa anh em ruột thịt như nước lã người dưng, chỉ muốn làm sao bứng những
người này ra khỏi nhà là thượng sách, chỉ để mình nắm trọn quyền sở hữu của
riêng mình. Do lòng tham lam, ông Hà đã lén làm giấy tờ cho riêng vợ chồng ông
đứng tên, đến khi giấy tờ nắm chắc trong tay, ông khởi sự trục xuất mẹ và em ra
khỏi nhà.
Đó, quý vị thấy
chưa? Tiền bạc, của cải, tài sản, đất đai sẽ làm mất đạo đức con người, mất
tình mất nghĩa, mất lòng hiếu thảo của con người.
Tóm lại, có khả
năng làm ra của cải, tài sản bằng công sức lương thiện của mình để nuôi gia
đình vợ con êm ấm; để nuôi dưỡng cha mẹ trong lúc tuổi già sức yếu đầy lòng hiếu
thảo; để giúp cho anh em, chị em có vốn làm ăn không thua kém người khác thì
tình nghĩa máu thịt càng sâu đậm; để giúp cho mọi người có công ăn việc làm
không còn sống trong cảnh thất nghiệp bữa đói, bữa no và cuối cùng là làm những
việc từ thiện bố thí cho những người bất hạnh trong xã hội; cho trẻ em mồ côi;
cho những người già neo đơn không người thân nuôi dưỡng và giúp cho trẻ em khuyết
tật, thì đó là đạo đức LY THAM HIẾU SINH trong tình thương yêu rộng lớn và cao thượng.
Cho nên làm giàu
có của cải, tài sản bằng mồ hôi công sức của mình thì không phải là có tội, mà
có tội là do lòng tham lam cướp công, cướp tiền của của người khác và ích kỷ, bỏn
xẻn, keo kiệt không dám bỏ ra bố thí cho những người nghèo khổ; không dám bỏ ra
giúp đỡ cho những người bất hạnh trong xã hội.
Làm ra của cải,
tài sản bất lương bằng sự gian xảo lừa đảo người khác, bằng sự cướp của, cướp
công người khác, bằng sự ăn lo hối lộ rồi chỉ bo bo để phục vụ cá nhân cho bản
thân mình, cho vợ con mình thì đó là người tích lũy tâm tham đắm của cải tài sản,
đánh mất đời sống ĐỨC LY THAM HIẾU SINH. Người đã đánh mất đức ly tham là đánh
mất tính người, chỉ còn là bản chất tham ăn của loài động vật.
--o0o--
3-
“Ông Hà lặng lẽ đứng tên những lô đất và quyền sở hữu nhà rồi lật ngược thế
cờ, đuổi cả mẹ và đứa em trai ra khỏi nhà...”. Đoạn này nói
lên THIẾU ĐỨC LY THAM HIẾU SINH Ý HÀNH.
Hành động ông Hà
lặng lẽ đứng tên những lô đất và quyền sở hữu nhà cửa rồi lật ngược thế cờ, đuổi
cả mẹ và đứa em trai ra khỏi nhà, đó là một hành động tham lam vô bờ bến, xấu
xa đáng lên án, đáng trách. Mẹ là người sinh thành dưỡng dục nuôi mình lớn khôn
mà lại già yếu rồi, sống còn bao lâu nữa, thế mà lòng tham ghê gớm thật! Xem
cha mẹ chẳng ra gì. Anh em dù cùng một cha mẹ, cùng một dòng máu, dù một nơi
sinh ra thì còn có nghĩa lý gì đối với những người lòng tham che khuất như ông
Hà, ông chỉ còn biết tiền! tiền!.. mà thôi.
Người tham lam là
người đánh mất nhân tính, đánh mất đạo đức hiếu sinh, đánh mất đạo đức ly tham.
Họ là những người đang ở trong các ác pháp, đang làm những điều ác và chịu nhiều
quả đau khổ, chứ không phải những người tham lam là những người sống đầy đủ an
vui và hạnh phúc.
Không! Họ rất khổ
đau, mệt nhọc, là vì những người này đầu óc toan tính bằng cách này, bằng cách
khác để chiếm đoạt tài sản, của cải, tiền bạc cho nhiều, nhiều chừng nào tốt chừng
nấy. Nhưng tiền bạc của cải biết bao nhiêu cho đầy túi tham không đáy của họ?
Lặng lẽ âm thầm đứng
tên những giấy tờ các lô đất và những giấy tờ quyền sở hữu nhà cửa. Đó là những
hành động tham lam mà người con trai của bà Hợi đã có tính toán trước. Khi có
giấy tờ chứng cớ đất đai nhà cửa của riêng mình thì tạo cảnh gây gổ bất hòa xảy
ra trong nhà, cuối cùng mới có cách thức trục xuất người mẹ và người em của
mình ra khỏi nhà mới được. Và như vậy tài sản nắm trọn trong tay không còn ai
dám đòi chia chác với nhau nữa. Đấy, quý vị thấy lòng tham ghê gớm thật, có mưu
mô, có tính toán kỹ lưỡng.
Nhưng lòng tham
lam có phải chính là mình không? Của cải tài sản, tất cả vật chất có cái gì của
mình đâu? Càng có nhiều của cải, tài sản, càng nhiều khổ đau. Đến khi chết có
người nào mang theo được những vật gì không? Hay chỉ còn là một nắm xương vùi
sâu trong lòng đất lạnh. Trên nấm mộ chỉ còn một nắm cỏ khâu xanh rì nơi nghĩa
địa hoang lạnh. Dù cho giàu sang như vua chúa, nhưng khi chết rồi cũng chỉ còn
có nhân quả thiện ác theo nghiệp mà đi tái sinh, chứ còn có linh hồn đâu.
Như ông Hà tích lũy
của cải tài sản cho thật nhiều, rồi đây con cái sẽ phá sạch, nếu không thì thiên
tai hỏa hoạn, bão tố cũng không chừa. Đến khi chết rồi ông chỉ còn một nắm tro
tàn khi mọi người đem thiêu xác, nhưng đời ông sẽ để lại tiếng xấu muôn đời
không thể xóa được: “Cướp giật nhà cửa đất
đai, đuổi mẹ và em ra khỏi nhà”. Báo chí đăng tin tức như vậy thì còn mặt mũi
nào nhìn thiên hạ; thì còn mặt mũi nào nhìn lại bản thân mình là một con người,
chứ đâu phải là con thú vật, vì của cải nhà cửa đất đai mà đuổi mẹ, xua em. Thật
đáng thương!
Chúng ta là những
người theo Phật giáo tu học đạo đức làm người, vì thế chúng ta không thể nào bỏ
qua đạo đức ly tham TỪ BỎ LẤY CỦA KHÔNG CHO. Đạo đức ly tham là một đức hạnh cần
phải học tập và rèn luyện để xứng đáng làm người. Chúng ta cần phải trui luyện
để trở thành con người không còn gian tham, trộm cắp lấy của không cho.
Trên đời này chỉ
có những người theo Phật giáo mới có tu học và sống với ĐỨC LY THAM. Lòng tham
của con người có rất nhiều loại, mà loại nào cũng rất độc đáo, thường đem lại
cho con người nhiều điều khổ đau.
Ở đây chúng ta chỉ
nói đến đức ly tham để xả bỏ lòng tham của cải, tài sản vật chất, đất đai nhà cửa,
chứ chúng ta chưa nói đến những lòng tham khác nhau như: tham ăn, tham ngủ,
tham danh, tham lợi, tham nói chuyện, tham mắng chửi người, tham nói xấu người,
tham tranh luận hơn thua, tham sắc dục, tham đua đòi, tham làm dáng làm đẹp,
tham nói những lời hung dữ, tham cái gì của mình cũng có cũng hơn cả mọi người,
tham đi chơi du hí, tham cờ bạc, rượu chè, tham hút chích, tham cá cược đua ngựa,
đua xe, tham ăn ngon mặc đẹp, tham chỗ ở cho tiện nghi, tham nhà cửa cao sang
hơn của mọi người, v.v.. Ở đây lòng tham nhiều lắm kể sao cho hết. Phải không
quý vị?
Tóm lại, người đời
vì vô minh không thấy tất cả các pháp vô thường, nên lầm chấp của cải tài sản
tiền bạc nhiều là hạnh phúc, sự thật nó là tai họa, nó là rắn độc thường mang mọi
sự khổ đau, phiền não cho mình, cho người và cho tất cả chúng sinh. Cho nên đức
Phật dạy: “Chúng ta cần phải sống xa lìa
lòng tham lam, từ bỏ lòng tham lam, từ bỏ lấy của không cho”. Đó là đạo đức
ly tham thứ hai trong Ngũ Giới của Phật giáo. Xin quý phật tử hãy lưu ý để
tránh xa những loài rắn độc này. Một khi chúng ta đã thấm nọc độc của loại rắn
này thì con người chúng ta trở nên hẹp hòi, ích kỷ, bỏn xẻn, v.v.. mất hết nhân
tính.
--o0o--
4-
“Biết bao lần bà thoi thóp thở trong bệnh viện vì nỗi uất nghẹn về đứa con
trai mà mình đã mang nặng đẻ đau và đặt trọn niềm tin tưởng. Rời khỏi căn nhà
mà đứa con trai đã đang tâm đuổi mình, bà Hợi chẳng kịp mang theo gì cả. Cái
bàn thờ của ông chồng bà vẫn còn nằm nguyên ở đó vì ông Hà đã thay khóa mới”. Đoạn này dạy THIẾU ĐỨC LY THAM Ý HÀNH, THÂN HÀNH.
Đoạn này nói lên
lòng tham lam không đáy của đứa con trai, nó đã giết người mẹ sinh ra nó bằng
cách đuổi ra khỏi nhà để bà chết dần, chết mòn trong đau khổ, trong tức giận.
Do lòng tham lam
con người tự làm khổ mình, khổ người khác; do lòng tham lam mà cuộc sống con
người bất an, xã hội mất trật tự, thế giới luôn luôn có chiến tranh.
Bởi vậy, đạo Phật
ra đời quyết tâm giúp con người quét sạch lòng tham lam bằng cách dạy con người
đức ly tham, từ bỏ lòng tham, từ bỏ lấy của không cho.
Muốn sống có đức
hạnh ly tham từ bỏ lấy của không cho thì hằng ngày thường xuyên tác ý nhắc tâm:
“Tâm tham lam là một pháp cực ác làm đau
khổ cho mình, cho người. Vậy chúng ta phải từ bỏ tâm tham, từ bỏ lấy của không
cho”.
Của cải tài sản
càng nhiều càng khổ đau, chỉ có đức ly tham mới đem lại hạnh phúc cho mình, cho
người.
Hằng ngày ở trong
thất một mình, chúng ta từng giữ sự yên lặng rồi lắng nghe tâm mình khởi lên từng
niệm tham, hết tham cái này đến tham cái kia. Hiện giờ tâm phàm phu của chúng
ta chưa ly dục ly ác pháp, nên nó luôn luôn còn đủ tham, sân, si, mạn, nghi. Nếu
tâm chúng ta sống với đức hiếu sinh thì lòng yêu thương rộng lớn của chúng ta sẽ
dẹp trừ sạch tâm tham, sân, si, mạn, nghi. Nhưng vì lòng yêu thương của chúng
ta chưa trọn vẹn, vì thế chúng ta mới còn tâm tham, sân, si, mạn, nghi.
Tuy nhiên chúng
ta rất cố gắng sống với đức hiếu sinh, nhưng nó chưa trở thành chúng ta và
chúng ta chưa trở thành ĐỨC HIẾU SINH, vì thế tâm tham, sân, si, mạn, nghi còn
xen vào được.
Nếu chúng ta đã
thành tựu được đức hiếu sinh thì chúng ta đã chứng quả A La Hán xong rồi. Vì
khi đức hiếu sinh ngự trị trong tâm thì không có một ác pháp nào tác động tâm
chúng ta được nữa. Còn hiện giờ đức hiếu sinh có lúc hiện, có lúc ẩn, cho nên
chúng ta sống với đức hiếu sinh chưa trọn vẹn, vì thế chúng ta lại tu học bồi
dưỡng thêm một đức hạnh nữa. Đó là ĐỨC LY THAM.
Nếu hằng ngày, hằng
giờ chúng ta luôn luôn áp dụng đức ly tham vào cuộc sống của chúng ta thì các
ác pháp không làm động tâm chúng ta được nữa.
Hôm nay chúng ta
lại có thêm một đức hạnh nữa, đó là ĐỨC LY THAM. Trước kia chúng ta chỉ có một
ĐỨC HIẾU SINH, vậy mà tâm tham, sân, si, mạn, nghi còn không đất ở. Hôm nay
chúng ta lại có thêm một đức ly tham nữa thì tâm tham, sân, si, mạn, nghi sẽ bị
triệt tiêu một cách dễ dàng. Vì tâm tham, sân, si, mạn, nghi đụng bất cứ chỗ
nào trong chúng ta thì chúng đều gặp hai đức hạnh này sẽ bủa vây đánh rốt ráo.
Do đó tâm tham không dám ló đầu ra chỗ nào nữa cả.
Ví dụ: Khi thân
tâm lừ đừ muốn đi ngủ thì tâm ly tham biết ngay: “Mày còn tham ngủ à? Phải đi ngay! Cút đi!”. Chỉ cần tác ý như vậy
là tâm tham ngủ đi ngay. Nếu nó không đi, lúc bấy giờ chúng ta muốn cho tâm
tham ngủ không còn nữa thì ngay đó chúng ta đi tới đi lui với câu tác ý: “Tôi đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành”.
Vừa đi, vừa thỉnh thoảng tác ý như vậy rồi cứ bước đi cho đến khi gần mỏi chân
mới ngồi xuống nghỉ. Khi ngồi lại là phải ngồi kiết già, lưng thẳng. Sau khi ngồi
chờ thân tâm được yên lặng mới tác ý: “Với
tâm định tĩnh tôi biết tôi hít vô, với tâm định tĩnh tôi biết tôi thở ra”.
Cứ tập luyện như vậy cho đến khi nào tâm hết buồn ngủ mới thôi.
Nếu khi tỉnh táo,
tâm tĩnh giác rất sáng suốt, thân tâm không còn lơ tơ mơ nữa, lúc bấy giờ chúng
ta mới ngồi lại bình thường, quán xét tâm tham, tâm sân, si, mạn, nghi xem nó
xuất hiện ngõ nào, thì ngay đó chúng ta dùng đức ly tham diệt trừ.
Ví dụ: Bấy giờ
tâm chúng ta muốn đi ra ngoài cho thoải mái dễ chịu hơn thì chúng ta biết ngay
đó là tâm tham của mình (tham cho cơ thể thoải mái). Biết như vậy chúng ta liền
bảo: “Đức ly tham ở đâu sao không quét
tâm tham đó đi!”. Khi suy tư và nói như vậy, đó là chúng ta đang áp dụng đức
ly tham trong cuộc sống hiện tại.
Tóm lại, lúc nào
có đức ly tham thì không bao giờ có tâm tham, cho nên đức ly tham sẽ đem đến sự
bình an cho mọi người, trong đó có chúng ta. Vì vậy đức ly tham buông xả rất
tuyệt vời.
--o0o--
5-
“Không thể chấp nhận hành vi của ông Hà, bà Hợi đã cùng một số người con
trong gia đình gởi đơn yêu cầu tòa án đưa vụ tranh chấp tài sản ra xét xử. Ngày
28/6/2006, tòa phúc thẩm TANDTC TPHCM đã tuyên xử: Chấp nhận một phần yêu cầu của
bà Hợi. Buộc ông Nguyễn Sơn Hà và bà Phạm Thị Thanh Vân - vợ ông Hà phải thanh
toán cho bà Hợi 11,45 lượng vàng SJC và 130.909.000 đồng. Còn tất cả những yêu
cầu khác của bà Hợi muốn lấy lại quyền sở hữu nhà và một số lô đất mà theo bà Hợi
đó là một số tài sản chung của gia đình đều bị tòa án bác bỏ. Bởi lẽ ông Nguyễn
Sơn Hà đã chứng minh tất cả tài sản đó là của riêng mình bằng những giấy chứng
nhận quyền sử dụng, quyền sở hữu hợp pháp trước tòa, ông Hà đã khẳng định cơ sở
giày dép là toàn bộ tài sản của riêng ông. Sau khi cha mất, vợ chồng ông Hà đã
nhờ bà Hợi giữ tiền dùm. Nên toàn bộ tiền mua đất, xây dựng nhà là tiền của vợ
chồng ông, không liên quan đến bà Hợi”. Đoạn này nói lên
THIẾU ĐỨC LY THAM THÂN HÀNH.
Khi mọi người
không sống với đức ly tham thì cuộc sống của họ dính mắc vật chất thế gian, nên
sẽ đi đến cảnh tranh tụng thưa kiện, gia đình tan nát, anh em chia lìa. Thật là
đau lòng!
Trên đời này
không có cái gì xấu xa và tệ hại cho bằng khi con đi kiện tụng cha mẹ và cha mẹ
đi kiện tụng con cái, hay anh đi kiện tụng em, em đi kiện tụng anh. Thật là tệ
hại và xấu hổ vô cùng, họ không còn nhìn mặt ai hết. Đó là do lòng tham của con
người.
Lòng tham của con
người đã mang đến cho mọi người biết bao nhiêu sự khổ đau. Điều này chắc ai cũng
biết. Phải không quý vị? Thật đau lòng!
Vật chất tiền bạc,
của cải tài sản, nhà cao cửa rộng, vàng bạc của báu có càng nhiều thì tai họa càng
to, muôn sự khổ đau đều nằm trên đó. Thật là ghê gớm! Chỉ cần quý vị thông suốt
nó là những pháp cực ác, nó sẽ giết hại và mang lại sự sống dẫy đầy đau khổ nên
quý vị phải tránh xa thì mới yên thân.
Ngày xưa đức Phật
và ông A Nan đi khất thực, khi đi ngang qua một bờ ruộng, ông A Nan nhìn thấy
dưới chân bờ ruộng nước chảy khuyết đất, để lộ ra một hũ vàng, ông A Nan mới chỉ
cho đức Phật thấy. Khi nhìn thấy, đức Phật bảo với ông A Nan rằng:
- Đấy là rắn
độc con ạ! Nó sẽ cắn chết. Chúng ta hãy đi tránh xa, đừng nên ở gần đó.
Một bác nông dân
đang cày ruộng gần đó, nghe vậy bác chạy đến xem và la to:
- Ôi! Vàng!
Là vàng mà hai ông đi xin ăn cho là rắn độc. Vậy ta mang nó về nhà để cho nó cắn
cả gia đình ta xem có được không?
Nói xong, người
nông dân dùng cuốc đào lấy trọn hũ vàng đem về nhà mình. Từ chỗ nghèo đi đến chỗ
giàu không có khó khăn. Nhờ vàng, ông xây cất nhà cửa, mua nhiều ruộng đất khiến
cho mọi người ngạc nhiên, nghi ngờ. Điều này đến tai nhà vua. Vì trước đó nhà
vua bị trộm lấy vàng, nên nay điều tra thì ra ông đã lấy vàng của nhà vua. Nhà
vua kết án tử hình cả nhà ông.
Trước khi chết,
nhà vua hỏi ông có muốn nói những lời gì không?
Người nông dân
than:
- Đúng vậy,
đức Phật và ông A Nan đã nói: “Vàng là rắn độc. Nó sẽ giết chết cả dòng họ anh
em ruột thịt, nếu ai rờ tới nó”. Chính con không nghe lời dạy ấy, nên hôm nay
con và cả dòng họ con đều bị nhà vua đem giết. Thật là đúng như lời đức Phật và
ông A Nan đã nói không sai.
Đúng vậy, của cải
tài sản, đất đai, nhà cao cửa rộng, tiền bạc châu báu là rắn độc. Nó sẽ giết chết
mọi người. Chỉ có những người ngu si mê muội vô minh thấy tiền bạc, của cải tài
sản, đất đai nhiều là tham đắm, là mừng vui. Chứ người có trí là họ rất sợ.
Càng lắm nhiều của cải tài sản, đất đai ruộng vườn là càng lắm tai họa. Và tai
họa sẽ mang đến những sự khổ đau mà không sao tránh khỏi.
Tóm lại đoạn này,
vì của cải, tài sản, nhà cửa, tiền bạc, đất đai có nhiều, nên người con trai sợ
các anh em khác chia chác, nên trục xuất mẹ và người em ra khỏi nhà để sau này
khỏi ai ăn lọt. Đó chứng tỏ tâm tham lam của người con trai này ông Hà cũng ghê
lắm! Đáng thương khi mọi người chưa biết sống với đức ly tham, nên tâm tham nổi
dậy, ông tìm mọi cách để chiếm đoạt tài sản của cải này thuộc về riêng mình.
Cả gia đình này
chưa bao giờ biết đến đức ly tham nên rất đáng thương hại. Từ ông Hà đến bà mẹ
cùng các em cũng không ly tham, nên những người này thấy của cải để một người
ăn thì tức, nên làm đơn thưa kiện nhau. Từ đây gia đình tan nát cha mẹ, anh em
chia lìa. Tình nghĩa mẹ con và anh em không còn nữa, cũng giống như người dưng
nước lã. Đúng là tâm tham mang đến muôn sự khổ đau. Có tâm tham lam ngự trị
trong lòng của mọi người làm sao hàn gắn gia đình này lại được nữa, tan nát hết
rồi. Phải không quý vị?
Nhưng những người
này họ làm sao biết được nguyên nhân nào sinh ra sự chia lìa phân tán, vì tâm
tham đã che khuất rồi. Họ đâu còn sáng suốt, chỉ còn biết của cải tài sản, đất
đai ruộng vườn.
Người học Phật với
đức hạnh ly tham thì không bao giờ có những điều đau lòng này xảy ra. Họ xem của
cải tài sản, đất đai, nhà cao cửa rộng, tiền bạc châu báu là rắn độc. Vì thế họ
không bị đồng tiền sai bảo. Họ làm ra của cải tài sản, chứ không phải của cải
tài sản làm ra họ. Cho nên cuộc sống của họ không bao giờ tranh chấp với ai cả.
Ai nghèo khổ, ai bất hạnh, ai neo đơn khốn khổ là họ sẵn sàng đến giúp đỡ liền,
không hề tiếc rẻ một thứ gì trên đời này.
Vì thế đức ly
tham sẽ mang lại hạnh phúc và sự bình an cho mình, cho người rất là cụ thể, biến
cuộc sống của chúng ta thành cuộc sống Thiên Đàng, Cực Lạc mà con người thường
mơ ước.
--o0o--
6-
“Trong phiên tòa hôm ấy, nhiều người con đã nghẹn ngào nhắc lại lời bố dặn
trước lúc lâm chung: “Bố chết đi, chỉ mong các con luôn thuận hoà, đừng chia
lìa nhau, đừng để gia đình lâm vào cảnh tan đàn xẻ nghé”. Đoạn này nói lên ĐỨC LY THAM ĐOÀN KẾT KHẨU HÀNH.
Đúng vậy, có lìa
được tâm tham mới có sự đoàn kết. Lời di chúc của người cha trước khi chết đã
nhắc nhở các con: “Bố chết đi, chỉ mong
các con luôn thuận hoà, đừng chia lìa nhau, đừng để gia đình lâm vào cảnh tan
đàn, xẻ nghé”. Nhưng làm sao được, khi của cải tài sản đã nắm gọn trong
tay, lòng tham không dừng nghỉ tại đó thì làm sao buông bỏ được. Buông bỏ không
được, cho nên con kiện tụng cha mẹ, cha mẹ kiện tụng lại con cái, thật là một cảnh
tan nát đau lòng. Trên đời này không có cái sống nào đau khổ bằng cái sống chia
rẽ, cái sống thiếu đoàn kết.
Ở đời người ta
thích chia rẽ, nên hay nói xấu nhau, nói lời li gián, nói lời thêu dệt, chuyện
có nói không, chuyện không nói có, nhất là nói xấu, mạt sát người để chứng tỏ
mình là người thanh cao, nhưng khi nói xấu người khác thì mình còn có thanh
cao, tốt đẹp nữa không?
Chúng tôi nhớ lại
lúc còn bé, bố chúng tôi có thuật lại một câu chuyện rất xúc động nói về một
người anh cả sống với các em bằng đức hy sinh ly tham, nhờ đó cả gia đình đoàn
tụ thương yêu và đoàn kết nhau như nước với sữa. Cho nên đức ly tham rất tuyệt
vời.
Có một gia đình
kia cha mẹ mất sớm, để lại cho ba anh em một gia tài giàu có nhất vùng. Từ khi
cha mẹ chết, ba anh em đều chung sống trong một gia đình thương yêu và đùm bọc
lẫn nhau. Cho đến khi người em thứ ba lấy vợ thì mới có sự phân chia tài sản
làm ba phần bằng nhau. Trong gia tài của người cha để lại cho các con, có một
cây danh mộc cổ thụ hơn mấy trăm năm rất quý.
Ba anh em đồng hẹn
ngày để chặt cây ấy, rồi chia làm ba phần bằng nhau. Đến ngày hẹn, cả ba anh em
đều có mặt dưới cội cây. Lúc bấy giờ, người anh cả ôm cây mà khóc và nói các
em:
- Nếu ba anh em chúng ta chặt cây này xuống
chia ra làm ba phần thì cây ấy chết mất, những di tích của ông bà cha mẹ để lại
cho chúng ta đâu còn nữa. Phải không các em? Anh thà chịu nghèo đói, các em hãy
chia phần ăn của anh ra làm hai cho hai em, còn anh sống sao cũng được, nhưng
xin các em đừng chặt cây này. Vì chặt cây này cũng giống như ba anh em chúng ta
vậy. Cho nên anh nghĩ đến đây anh thương các em lắm! Khi cha mẹ chết, chúng ta
cùng nương tựa nhau mà sống. Đến bây giờ chúng ta chặt cây này chia ra thì còn
gì nữa các em: “Đoàn kết là sống, chia rẽ là chết, các em có hiểu điều này không?”.
Khi người anh cả
nói đến đây, hai người em chạy đến bên người anh cả ôm nhau mà khóc. Đấy là
hành động đạo đức ly tham đoàn kết của ba anh em nhà này, quý vị có biết không?
Còn gia đình bà Hợi
thì hết cứu chữa rồi quý vị ạ! Tan nát hết rồi! Kiện tụng nhau như trâu trắng
trâu đen, đuổi mẹ ra ở chỗ khác thì còn gì hàn gắn được nữa. Nhưng nếu người mẹ
và những anh em trong nhà này, chỉ cần mọi người biết sống với đức ly tham thì
sự kiện tụng sẽ chấm dứt và tất cả mọi sự khổ đau không còn nữa. Sống an lạc,
thanh thản và vô sự, không phải sung sướng lắm sao?
Bởi người đời vô
minh cứ tưởng tiền bạc, vật chất, của cải, tài sản, nhà cửa, đất đai, ruộng vườn,
v.v.. là thường hằng, bất di bất dịch, là của mình nên thường cố chấp không chịu
buông xả, không chịu ly tham. Do đó mới tạo ra biết bao nhiêu là sự khổ đau cho
mình, cho những người thân của mình và cho những người khác nữa. Phải không quý
vị?
Tóm lại, muốn sống
có đoàn kết thì phải biết dùng đức ly tham, chỉ có đức ly tham thì mới có sự
đoàn kết thật sự. Còn tâm tham thì không bao giờ có đoàn kết. Chính lòng tham của
con người mà trên thế gian tràn đầy sự khổ đau; chính lòng tham của con người
mà sự sống không đoàn kết, thiếu lòng chân thật.
Học đức ly tham
là học đoàn kết, muốn có đoàn kết thì phải có đức ly tham. Cho nên đức ly tham
rất cần thiết cho sự đoàn kết. Cuộc sống của con người rất cần có sự đoàn kết,
có đoàn kết mới có sức mạnh vĩ đại. Đoàn kết là sống, chia rẽ là chết, quý vị
có biết không?
Trong lớp học giới
đức ly tham, chúng ta là những tu sinh và giảng viên phải cố gắng xả ngã của
mình, còn chấp ngã nên thường xảy ra có những ý kiến này ý kiến khác. Những ý
kiến ấy trái ngược nhau khiến cho lớp học thiếu đoàn kết, thiếu đức hiếu sinh.
Đức hiếu sinh không có thì đức ly tham cũng không có. Đức ly tham không có thì
đức đoàn kết không có. Và như vậy lớp học đạo đức càng trở nên thiếu đạo đức,
và như vậy người ở ngoài nhìn vào sẽ cười chê. Cho nên, học đạo đức mà không sống
đạo đức thì rất xấu hổ.
--o0o--
7-
“Bà Hợi cùng một vài người con phải ôm tập hồ sơ đi kêu cứu nhiều nơi, khiếu
nại ông Hà. Tập thể bà con khu phố ở phường Tân Thuận Tây, quận 7 đã gửi đơn
lên tòa án nhân dân quận 7, đồng kính xin tòa án xét xử đem lại sự công bằng
cho bà Hợi, vì ông Hà đã lợi dụng sự dễ dãi của mẹ mình để chiếm đoạt tài sản.
Thế nhưng ông Hà đã thắng kiện vì có đầy đủ giấy tờ trong tay”. Đoạn này nói lên THIẾU ĐỨC LY THAM THÂN HÀNH.
Ôm hồ sơ đi thưa
kiện với nhau là một điều vô minh hết sức, là một điều làm mang tai tiếng gia
đình. Mẹ đi kiện thưa con, thật là đau lòng! Nếu con mình nó tham tiền của vật
chất, nhà cửa ruộng vườn đất đai thì cứ để cho nó hưởng đi, có gì mà phải thưa
kiện? Con nó ăn chứ đâu phải ai vào đó ăn sao? Còn mình hãy ôm giữ trọn đức ly
tham thì có sung sướng hơn không? Có đâu phải khổ đau, phải chịu cực nhọc đi từ
chỗ này đến chỗ khác thưa kiện, người ta còn chê cười. Phải không quý vị? Con
mình nó ăn thì cũng như mấy đứa con kia. Anh mình, hay em mình chứ có ai xa lạ
đâu? Cùng anh em trong một nhà, nó không nuôi mẹ thì các anh em khác nuôi mẹ.
Bà đã 75 tuổi rồi sống còn bao lâu nữa, không phải vì của cải tài sản mà để mẹ
khổ đau như vậy sao? Thật là điên khùng! Thật là ngu si! Bà đã già rồi, còn lại
những ngày quá ít, phải sống như thế nào cho tâm hồn thanh thản, an lạc và vô sự,
chứ ôm chi của cải tài sản làm cho thêm đau khổ, cho thêm phiền lụy. Chết rồi cũng
không mang theo đồng lớn đồng nhỏ nào được cả.
Chúng ta hãy nghe
Hòa Thượng Minh Châu nói: “Người đời cứ
tưởng của cải tài sản đất đai ruộng vườn, v.v.. sẽ giúp nhiều cho mình trong
cơn hoạn nạn, không hiểu của cải tài sản đất đai ruộng vườn ấy rất mỏng manh,
tan biến vô thường, nhiều khi trở lại làm hại người chủ. Cũng vì vậy mà ngài A
Nan đã so sánh của cải tài sản như con rắn độc hại người. Đức Phật dạy chúng ta
rằng của cải tài sản, đất đai ruộng vườn là các pháp vô thường, nếu ai bám theo
nó sẽ phải chịu nhiều khổ đau. Chỉ có của cải tài sản, đất đai ruộng vườn đem bố
thí, làm điều thiện, giúp người bất hạnh, đó là tiến dần trên con đường giải
thoát tự tại, và đưa đến chứng quả Niết Bàn an lạc”. Đúng vậy, tiền bạc,
tài sản của cải, nhà cửa đất đai, vật chất nó không thể bảo đảm cho đời sống của
chúng ta được bình an, mà còn tạo biết bao nhiêu sự phiền phức đau khổ.
Cho nên trên đời
này chỉ có sống làm những điều thiện, tích lũy những điều thiện, tức là sống có
đạo đức biết thương mình, thương người và thương tất cả các loài chúng sinh. Nhất
là luôn luôn phải sống với đức ly tham, vì có đức ly tham thì tâm tham, sân,
si, mạn, nghi không tấn công chúng ta được. Người tu hành phải ghi khắc nhớ những
điều này.
Ở đâu có đức ly
tham là ở đó có an vui, hạnh phúc và giải thoát. Người mẹ và các người con
không biết ly tham nên phải làm đơn đi thưa kiện từ chỗ này đến chỗ kia, phải
chịu vất vả khổ sở vô cùng. Đâu phải đi thưa kiện không tốn tiền bạc sao? Người
xưa nói: “Thất kiện như nắm xương khô, được
kiện như mồ ma chết”. Cả hai bên thưa kiện nhau đều không có lợi ích, chỉ
đem đến sự hao tốn và mọi khổ đau cho cả hai mà thôi, còn cái lợi là ở người
khác.
Biết rõ lợi hại của
sự kiện tụng nhau như vậy, nên chúng ta càng tránh xa càng tốt, vì kiện tụng
không đem lại lợi ích cho chúng ta, mà lại càng làm cho chúng ta đau khổ nhiều
hơn. Vì thế, chúng ta cần phải hiểu biết cho rõ ràng, chỉ có buông xả vật chất,
tài sản, của cải, vàng bạc, nhà cửa, v.v.. thì chúng ta sẽ có được sự bình an
và hạnh phúc, nhờ vậy trong cuộc sống lúc nào cũng an vui chân thật.
Buông xả được tâm
tham là nhờ chúng ta khéo léo biết dùng đức ly tham, nhờ đức ly tham chúng ta mới
từ bỏ lấy của không cho, mới từ bỏ không còn tham muốn những vật chất và danh lợi
trên đời nữa.
Cho nên người nào
biết dùng đức ly tham để sống là người đó có trí tuệ. Người có trí tuệ là người
khôn ngoan, là người có hạnh phúc nhất trần gian. Còn ngược lại, sống không có
đức ly tham thì không bao giờ có sự an vui hạnh phúc chân thật.
Người sống không
có đức ly tham thì làm sao tránh khỏi lòng tham đắm vật chất, lòng tham đắm
danh lợi hơn thua. Và vì vậy sự đi thưa, kiện tụng là điều xảy ra chắc chắn. Đó
là những điều không thể nào tránh khỏi. Những người đi thưa, kiện tụng là phải
đem tiền bạc mướn luật sư, hoặc hối lộ cho những người có quyền thế. Những người
đi thưa kiện thì tâm không bao giờ khỏi lo lắng buồn phiền, không biết mình được
kiện hay thất kiện, sống trong lo âu phập phồng lúc nào cũng không yên, sợ tiền
mất mà thất kiện. Do tâm tham mà đời sống không thanh thản, an lạc và hạnh
phúc.
Cho nên người nào
biết dùng đức ly tham để sống là người có trí tuệ, có tâm hồn cao thượng, biết
buông xả vật chất, biết bố thí cho người nghèo, người bất hạnh, biết thương
mình, thương người và thương tất cả. Đó là người sống với đức ly tham.
--o0o--
8-
“Nhiều năm nay, bà Hợi sống dở chết dở vì nỗi đau mà ông Hà gây ra. Hôm tòa
mở phiên xét xử, bà Hợi đã xin phép được vắng mặt vì chịu làm sao nổi cú sốc
đó: “Đến tòa chắc tôi chết mất”. Đoạn này nói lên THIẾU
ĐẠO ĐỨC LY THAM Ý HÀNH.
Do thiếu đạo đức
ly tham mà bà Hợi nhiều năm nay sống dở, chết dở vì nỗi đau do ông Hà đứa con
trai của bà gây ra. Hôm tòa mở phiên xét xử, bà Hợi đã xin phép được vắng mặt
vì chịu làm sao nổi cú sốc đó: “Đến tòa
chắc tôi chết mất”. Nếu người biết giữ gìn đức ly tham thì đâu phải khổ như
bà Hợi. Thật là tội nghiệp cho bà! Cuộc đời không biết Phật pháp là một thiệt
thòi rất lớn, biết Phật pháp mà không được học đạo đức ly tham thì cũng vô ích,
như trường hợp bà Hợi và các con của bà.
Cuộc đời không gặp
chánh pháp của Phật nên tâm tham không diệt trừ thì phải chia rẽ và chịu khổ
đau như gia đình bà Hợi. Gia đình bà Hợi chỉ là một gia đình và chắc chắn còn
biết bao gia đình khác nữa trên thế gian này chưa biết đức ly tham, chưa học đạo
đức nhân bản - nhân quả của Phật giáo. Không được học chánh pháp của Phật,
không được rèn luyện nhân cách đức hạnh ly tham thì không sao tránh khỏi những
điều tranh chấp hơn thua từ lời ăn, tiếng nói, từ của cải tài sản, v.v.. Vì thế
cuộc đời phải chịu nhiều đau khổ. Chịu nhiều đau khổ chỉ vì mọi người không thấy,
không biết các pháp thế gian là vô thường, là khổ, là vô ngã, trên đời này
không có pháp nào là ta, là của ta, là bản ngã của ta, nên thường chấp các pháp
có như thật, từ đó tâm tham đắm dính mắc phát sinh ra mạnh mẽ.
Con người hiện
nay sống không có đức ly tham, vì họ không biết, không hiểu đức ly tham. Do
không biết, không hiểu nên lòng tham đắm, cố chấp, dính mắc vật chất quá nặng nề,
chính vì vậy họ phải chịu nhiều đau khổ.
Chúng ta là những
người may mắn gặp được chánh pháp của Phật và được học đức hạnh ly tham, vì thế
không một ác pháp nào dám bén mảng đến chúng ta được. Nhờ sống với đức ly tham,
tâm chúng ta được bảo vệ bình an, yên ổn, luôn luôn sống với tâm thanh thản, an
lạc và vô sự.
Người sống có đức
ly tham là người sống toàn thiện, bởi vì tâm tham không có thì tâm sân không
có; tâm sân không có thì tâm si không có; tâm si không có thì tâm mạn không có;
tâm mạn không có thì tâm nghi không có. Bởi vậy, điều quan trọng là làm sao lúc
nào chúng ta cũng sống có tâm ly tham. Muốn được vậy thì phải tác ý mỗi khi có
niệm tham, có các ác pháp tấn công từ mọi phía. Nhờ đó chúng ta đem lại sự bình
an cho mình, cho người.
Con người chỉ vì
vô minh, ngu si và mê muội lầm chấp của cải, tiền bạc, kho tàng châu báu là đem
lại sự an vui hạnh phúc, nhưng điều ấy không bao giờ có. Trên đời này muốn có sự
an vui, hạnh phúc thì chỉ có đức hiếu sinh, đức ly tham, đức bố thí ly tham,
v.v.. Với những đức hạnh này thì của cải, tài sản, kho báu sẽ mang đến cho con
người bằng những sự bình an và hạnh phúc chân thật. Của cải, tài sản, kho báu
đó do người có đức ly tham biết làm việc từ thiện thì không thể chuyển giao cho
người bất thiện, không thể bị giặc cướp, bị trộm cắp đoạt, bị vua chúa tước đoạt
sung công, v.v.. và không thể có một người nào lấy được.
Hỡi những người
tu học theo Phật giáo! Hỡi những tu sinh trong các lớp học đạo đức Ngũ Giới!
Hãy sống với những đạo đức đó. Đó chính là của cải, tài sản, kho báu luôn luôn
đem theo bên mình mà không sợ mất mát.
Với của cải, tài
sản, kho báu ấy, nó đem lại mọi sự an lạc cho loài người, đem lại sự bình an
cho trái đất này; với của cải, tài sản, kho báu ấy, mọi người có ước nguyện điều
gì thì đều được thành tựu viên mãn; với của cải, tài sản, kho báu ấy, mọi người
ước nguyện có gương mặt đẹp, có giọng nói êm dịu, có sắc đẹp duyên dáng, tráng
lệ và hoa mỹ, có những hành động nhẹ nhàng êm dịu đều thành tựu thực hiện một
cách dễ dàng.
Những uy quyền và
thế lực, sự sung sướng được ngự trị trên hành tinh này, một địa vị cao sang mà
ai cũng mong muốn, ao ước, cho đến những thầm mong muốn, ước ao mình trở thành
những người hiền đức, những bậc Thánh, Tiên, Phật, những bậc A La Hán tâm vô lậu
hoàn toàn đều nhờ kho báu ấy giúp đỡ cho thành tựu. Sự giàu sang ở trên đời và
mọi hạnh phúc trong cuộc đời này và sự chứng quả Niết Bàn đều nhờ vào kho báu
toàn thiện này giúp cho thành tựu.
Những ai có được
thiện hữu tri thức và nhờ sống với những đức hạnh này thì có được trí tuệ giải
thoát và tự tại. Mọi kết quả trên đời đều do nhờ kho báu đạo đức ấy giúp cho
thành tựu.
--o0o--
9-
“Tòa tuyên xử bà Hợi được chia 1/11 trong số tài sản ông Hà đang nắm giữ.
Nhưng tám tháng đã trôi qua, bà Hợi vẫn chưa nhận được số tiền mà ông Hà và bà
Vân phải thanh toán. Bà Hợi đã hai lần gởi đơn yêu cầu thi hành án, nhưng tất cả
chỉ rơi vào im lặng. Bà Hợi đã làm đơn khởi kiện vụ tranh chấp tài sản giữa bà
và ông Hà lên tòa án quận 7. Trong quá trình thụ lý vụ án hơn một năm, ông Hà vẫn
được cấp chủ quyền nhà khi ngôi nhà đang thuộc diện tranh chấp”. Đoạn này nói lên THIẾU ĐẠO ĐỨC LY THAM THÂN HÀNH.
Người ở thế gian
lòng tham không đáy, mẹ cũng tham, con cũng tham, cả mẹ lẫn con đều tham, nên
trong bài này đã xác định rất rõ ràng. Người mẹ chết lên, chết xuống cũng vì tiền
bạc, của cải, v.v.. người con không trả cho mẹ cũng vì tiền bạc. Thật là tình
nghĩa mẹ con đâu còn nữa! Đã hết rồi!
Trên thế gian này
anh em, chị em cùng sống chung trong một nhà, cùng một cha một mẹ sinh ra lại
vì miếng ăn, tiền bạc, của cải, tài sản đi thưa kiện nhau thật là xấu hổ vô
cùng, lại còn chém giết nhau không một chút lòng yêu thương. Cái tệ hại và xấu
xa nhất là cha mẹ đi kiện con cái, con cái đi kiện cha mẹ thật là đau xót vô
cùng.
Trong cuộc đời
này người ta chỉ biết có của cải tài sản, đất đai ruộng vườn, chứ người ta đâu
biết rằng có một thứ quí giá hơn gấp trăm ngàn lần, đó là đạo đức hiếu sinh, đạo
đức ly tham. Ở đâu có đạo đức hiếu sinh, đạo đức ly tham là ở đó có sự an vui hạnh
phúc, có sự bình an yên ổn, có tình yêu thương thấm đượm tình người.
Của cải tài sản,
nhà cửa, tiền bạc châu báu, v.v.. đều vô thường. Nay nó đến với người này, mai
nó đến với người khác, thường di dịch thay đổi. Còn đạo đức thì thường hằng
luôn mãi bất di bất dịch. Nếu đạo đức sống với con người như hình với bóng thì
thế gian này là Thiên Đàng, Cực Lạc.
Đạo đức LY THAM
đi đến đâu thì lòng thương yêu của mọi người đến đó. Người có đức ly tham là
người có ĐỨC HIẾU SINH; đức ly tham đến đâu thì đức hiếu sinh đi đến đấy. Đức
ly tham làm thanh tịnh đức hiếu sinh, đức hiếu sinh làm thanh tịnh đức ly tham;
đức ly tham ở đâu thì đức hiếu sinh ở đó, đức hiếu sinh ở đâu thì đức ly tham ở
đó. Đức hiếu sinh như thân, còn đức ly tham như tâm, vì thế thân tâm không thể
lìa nhau một phút giây nào cả.
Hôm nay chúng ta
học thêm đức ly tham để hiểu biết thêm sự gắn bó từ đức hạnh này sẽ gắn liền với
đức hạnh khác, có đức hạnh này thì sẽ có đức hạnh khác. Cho nên người tu tập
rèn luyện nhân cách đạo đức không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả muôn
loài chúng sinh thì chỉ cần sống đúng với một đức hạnh thì sẽ sống với tất cả đức
hạnh khác. Để mở rộng tầm hiểu biết của con người, vì thế chúng ta cần phải học
tu tập nhiều đức hạnh, nhưng kỳ thực chúng ta chỉ cố gắng sống cho trọn vẹn một
đức hạnh nào đó trong năm đức hạnh cho thật lòng thì chúng ta đã sống với tất cả
đức hạnh khác.
Tóm lại, đức LY
THAM sẽ giúp chúng ta thoát khổ hoàn toàn. Đức ly tham tức là đức LY DỤC LY ÁC
PHÁP. Đức ly dục ly ác pháp tức là đức CHÁNH ĐỊNH; đức Chánh định gồm có đầy đủ
TỨ THẦN TÚC, TAM MINH và LỤC THÔNG.
Cho nên, khởi đầu
bằng đức ly tham nhưng cuối cùng chứng quả A La Hán có đầy đủ Tam Minh, Lục
Thông. Như vậy con đường tu theo Phật giáo đến đây đã hoàn tất.
--o0o--
10- “Ngày ngày bà Hợi vẫn ngồi thẫn thờ trong
ngôi nhà của người anh cả. Nỗi đau âm ỉ, giằng xé tâm can bà lại khóc, lại nhập
viện. Bà Hợi biết rằng ông Hà “không chịu thi hành án... Chỉ vì nó đợi tôi chết,
để số tiền đó nó không phải hoàn trả lại cho tôi...” Chẳng lẽ các cơ quan chức
năng và tòa án các cấp có thể làm ngơ với nỗi đau của bà Hợi?”. Đoạn này nói lên THIẾU ĐỨC LY THAM Ý HÀNH.
Thật là tội nghiệp
cho bà Hợi, chỉ có một số tiền bạc nhỏ mọn như vậy mà bà thẫn thờ... Nỗi đau âm
ỉ, giằng xé tâm can bà lại khóc, lại nhập viện. Thật là vô minh và còn ngu si
không chỗ nói. Một phút giây sống thanh thản, an lạc và vô sự là một phút giây
giá trị tuyệt vời, dù ai đem cả vàng bạc, của cải, châu báu, ngọc ngà chất như
núi chúng ta cũng chẳng thèm đổi, huống là một số tiền cỏn con như vậy mà lại để
cho thân tâm mình khổ đau sao?
Đọc đến đoạn này
ai cũng biết bà Hợi 75 tuổi, bà còn sống được bao lâu nữa mà còn chấp vào tiền
bạc để làm gì? Để khiến cho mình mau chết, mà còn chết trong đau khổ, thật là
điên dại. Nếu số tiền đó Hà không ăn thì đứa con khác cũng ăn, chứ bà còn ăn được
những gì nữa đâu mà phải sầu khổ đến như vậy.
Cho nên, làm người
ở đời không học đạo đức ly tham nên không hiểu biết, cứ ôm chặt lòng tham, khư
khư không chịu rời bỏ nó, vì thế phải chịu nhiều sự khổ đau vô cùng, vô tận từ ngày
này sang ngày khác, từ kiếp này sang kiếp khác.
Hỡi các tu sinh!
Chúng ta hôm nay có đủ duyên theo tu học lớp đạo đức ly tham của Ngũ Giới. Vậy
chúng ta hãy đem hết sức ra tu học và áp dụng vào đời sống hằng ngày để tâm
chúng ta không còn một chút nào tham, sân, si, mạn, nghi thì chúng ta mới bình
an.
Thấy gương hạnh xấu
không ly tham của bà Hợi khổ đau mà suy nghĩ lại tâm mình. Chúng ta có buông xả
của cải, tài sản, tiền bạc, vật chất hết chưa?
Ở đây, quý vị đừng
hiểu một cách đơn giản mà phải hiểu cho kỹ. Có người hiện nay đã cạo bỏ râu
tóc, đắp áo cà sa sống không nhà cửa, không gia đình mà của cải tài sản còn
chưa bỏ. Của cải, tài sản, tiền bạc, vật chất còn chưa bỏ thì quý vị đi tu để
làm gì?
Có người bảo
buông bỏ dễ lắm có gì khó đâu, nhưng không phải vậy quý vị ạ!? Nói buông bỏ mà
không có phương pháp thì làm sao buông bỏ được. Lòng tham lam nó đã thấm vào
xương vào tủy của quý vị, cho nên muốn buông bỏ thì phải học ĐỨC LY THAM. Có học
đức ly tham thì chúng ta mới biết cách buông bỏ từng tâm niệm tham, sân, si, mạn,
nghi của mình. Đức ly tham và tri kiến hiểu biết các pháp vô thường, không có
pháp nào là ta, là của ta, là bản ngã của ta, và cùng với pháp như lý tác ý hợp
lại thì mới có phương pháp xả tâm tham, sân, si, mạn, nghi. Chừng đó mới thấy xả
tâm dễ dàng.
Có khi nào quý vị
ngồi lắng nghe từng tâm niệm của mình hay không? Có lắng nghe thì quý vị mới thấy
từng tâm niệm của quý vị luôn luôn chứa đầy lòng tham lam đang triền miên tận
tâm can quý vị. Khi tĩnh giác từng niệm tham thì lần lượt chúng ta sẽ loại trừ
từ bỏ, nhờ đó mới hoàn toàn xa lìa tâm tham, sân, si v.v..
Tóm lại, đức ly
tham có thì lòng tham không có, còn lòng tham có là đức ly tham không có. Hai
trạng thái này như mặt trời và mặt trăng, như ngày và đêm, hễ cái này có thì
cái kia không, cái kia không thì cái này có.
Hễ có đức ly tham
thì có tâm thanh thản, an lạc và vô sự, còn đức ly tham không có thì tâm đau khổ
phiền não đến quấy rầy.
Cho nên sống với
đức ly tham thì cuộc đời mới tràn đầy sự an vui hạnh phúc, sống với đức ly tham
thì mới mang lại sự bình an cho mình, cho người và cho tất cả muôn loài chúng
sinh.
BÀI HỌC THỨ BA:
RÈN NHÂN CÁCH
ĐẠO ĐỨC LY THAM Ý HÀNH, THÂN HÀNH, KHẨU HÀNH:
Buổi trưa mùa hè năm đó, tôi đang chơi trong sân nhà, bỗng nghe tiếng xích
sắt kêu xủng xoẻng sau lưng. Tôi ngoái đầu lại nhìn và không thể nào rời mắt khỏi
cảnh tượng kỳ lạ ấy. Hai hàng người mặc đồng phục kẻ xọc xanh trắng rộng thùng
thình đang đi trên đường, gương mặt của họ đầy bụi bặm lẫn mồ hôi. Nhìn mọi người
rất mệt mỏi, đã vậy chân còn bị buộc với nhau bằng sợi xích sắt đen to tướng và
kéo theo những hòn bi sắt trông rất nặng nề. Canh giữ họ là hai người lính cầm
súng sẵn sàng trên tay.
Tôi chỉ biết đứng
ngây người, nhìn đoàn người tù tội nghiệp ấy lê bước đến dưới bóng râm của tàn
cây duy nhất bên đường. Bỗng một người lính tiến về phía tôi. Đi ngang qua tôi,
anh khẽ gật đầu chào rồi thẳng tới gõ cửa nhà tôi. Mẹ tôi xuất hiện, tôi chỉ
nghe loáng thoáng tiếng anh lính xin phép mẹ tôi lấy nước ở vòi nước trước sân
cho đoàn người tù uống. Mẹ tôi đồng ý, nhưng tôi thấy vẻ mặt của mẹ tôi khá lo
lắng và gọi tôi vào nhà.
Đứng sau cửa sổ,
tôi dán mắt nhìn những người tù lê bước tới chỗ vòi nước. Trong cái nắng như
thiêu, như đốt, họ xếp thành một hàng dài, chờ người đứng trước uống xong rồi mới
được nhích lên đến chỗ vòi nước, hứng đầy nước vào một cái ca nhỏ, rồi hấp tấp
uống cạn trong sự giám sát của hai người lính. Lần lượt từng người như thế nên
một lúc lâu sau, đoàn người tù cùng hai anh lính mới trở lại núp dưới bóng râm
hiếm hoi của tàn cây bên kia đường.
Tôi nghe tiếng mẹ
gọi tôi trong bếp. Tôi chạy đến và thấy mẹ mở tủ lạnh lấy ra hết các hộp cá
mòi, bơ, bánh mì, vốn là bữa ăn tối của gia đình tôi - cùng hai bình nước chanh
đã pha xong. Mẹ nhanh nhẹn sắp các thức ăn ấy vào chiếc khay lớn. Mẹ đưa cho tôi
một bình, bảo cầm lấy rồi đi theo mẹ. Còn mẹ một tay cầm khay, một tay cầm chiếc
bình còn lại đi ra cửa.
Hai mẹ con tôi tiến
tới chỗ hai người lính và mẹ tôi nói:
- Nhà tôi
có sẵn một chút thức ăn cho bữa trưa, anh cho phép chúng tôi được san sẻ với
hai anh và những người này nữa nhé!
Hai người lính
nhìn sững mẹ con tôi trong giây lát rồi gật đầu cảm ơn. Mẹ chia thức ăn cho hai
người lính xong và đi đến chỗ tù nhân. Mẹ rót cho họ những cốc nước chanh thật
đầy và đưa từng miếng bánh mì đến tận tay của mỗi người.
Không khí rất lặng
lẽ, trừ vài tiếng “cám ơn” rất khẽ
khàng và tiếng xích va vào nhau kêu lẻng xẻng. Chẳng bao lâu, hai mẹ con tôi đi
tới người tù nhân cuối cùng. Ánh mắt của mẹ dịu dàng nhìn người đó và mỉm cười.
Người cuối cùng rất cao to, có làn da đen sậm và trông rất bẩn do mồ hôi, cát bụi
bám vào. Đưa tay nhận miếng bánh của mẹ tôi, gương mặt của ông giãn ra, đôi môi
nở nụ cười biết ơn. Ông ta nói:
- Thưa bà!
Trong cuộc đời của tôi, tôi tự hỏi không biết bao giờ tôi mới được gặp thiên thần?
Cho đến buổi trưa hôm nay, tôi biết
mình đã có diễm phúc đó. Xin cảm ơn bà!
Một lần nữa, mẹ
tôi mỉm cười với người tù đó và nhẹ nhàng đáp:
- Rất hoan
nghênh các anh ghé đến xóm nhỏ của chúng tôi. Cầu mong mọi người luôn được bình
an!
Sau khi chia hết
chỗ thức ăn, hai mẹ con tôi trở về nhà với chiếc khay và bình nước chanh trống
rỗng.
Sau đó những người
tù lại lên đường, từ đó đến nay tôi không hề gặp lại họ. Nhưng tôi vẫn còn nhớ
lại lời mẹ giải thích vào ngày hôm ấy rằng: “Trong
cuộc sống, chúng ta nên luôn chia sẻ và giúp đỡ người khác, vì như thế là chúng
ta đã đem lại niềm vui cho chính cuộc sống của mình”.
Mẹ tôi kết thúc
câu chuyện bằng nụ cười dịu dàng rồi đi làm việc nhà như mọi ngày. Tôi không nhớ
tối hôm đó mình ăn những gì, nhưng chỉ biết đã có một thiên thần dọn bữa cho
gia đình tôi.
(Hạt giống tâm hồn
Mãi mãi là yêu thương, trang 83
Bích Thủy, Theo Entertaining Angels)
--o0o--
1-
“Buổi trưa mùa hè năm đó, tôi đang chơi trong sân nhà, bỗng nghe tiếng xích
sắt kêu xủng xoẻng sau lưng. Tôi ngoái đầu lại nhìn và không thể nào rời mắt khỏi
cảnh tượng kỳ lạ ấy. Hai hàng người mặc đồng phục kẻ xọc xanh trắng rộng thùng
thình đang đi trên đường, gương mặt của họ đầy bụi bặm lẫn mồ hôi. Nhìn mọi người
rất mệt mỏi, đã vậy chân còn bị buộc với nhau bằng sợi xích sắt đen to tướng và
kéo theo những hòn bi sắt trông rất nặng nề. Canh giữ họ là hai người lính cầm
súng sẵn sàng trên tay”. Đoạn này dạy đạo đức gì?
2-
“Tôi chỉ biết đứng ngây người, nhìn đoàn người tù tội nghiệp ấy lê bước đến
dưới bóng râm của tàn cây duy nhất bên đường. Bỗng một người lính tiến về phía
tôi. Đi ngang qua tôi, anh khẽ gật đầu chào rồi thẳng tới gõ cửa nhà tôi. Mẹ
tôi xuất hiện, tôi chỉ nghe loáng thoáng tiếng anh lính xin phép mẹ tôi lấy nước
ở vòi nước trước sân cho đoàn người tù uống. Mẹ tôi đồng ý, nhưng tôi thấy vẻ mặt
của mẹ tôi khá lo lắng và gọi tôi vào nhà”. Câu này dạy đạo
đức gì?
3-
“Đứng sau cửa sổ, tôi dán mắt nhìn những người tù lê bước tới chỗ vòi nước.
Trong cái nắng như thiêu, như đốt, họ xếp thành một hàng dài, chờ người đứng
trước uống xong rồi mới được nhích lên đến chỗ vòi nước, hứng đầy nước vào một
cái ca nhỏ, rồi hấp tấp uống cạn trong sự giám sát của hai người lính. Lần lượt
từng người như thế nên một lúc lâu sau, đoàn người tù cùng hai anh lính mới trở
lại núp dưới bóng râm hiếm hoi của tàn cây bên kia đường”. Câu này dạy đạo đức gì?
4-
“Tôi nghe tiếng mẹ gọi tôi trong bếp. Tôi chạy đến và thấy mẹ mở tủ lạnh lấy
ra hết các hộp cá mòi, bơ, bánh mì, vốn là bữa ăn tối của gia đình tôi - cùng
hai bình nước chanh đã pha xong. Mẹ nhanh nhẹn sắp các thức ăn ấy vào chiếc
khay lớn. Mẹ đưa cho tôi một bình, bảo cầm lấy rồi đi theo mẹ. Còn mẹ một tay cầm
khay, một tay cầm chiếc bình còn lại đi ra cửa”. Câu này dạy đạo
đức gì?
5-
“Hai mẹ con tôi tiến tới chỗ hai người lính và mẹ tôi nói:
- Nhà tôi có sẵn một chút thức ăn cho
bữa trưa, anh cho phép chúng tôi được san sẻ với hai anh và những người này nữa
nhé!”. Câu này dạy đạo đức gì?
6-
“Hai người lính nhìn sững mẹ con tôi trong giây lát rồi gật đầu cảm ơn. Mẹ
chia thứa ăn cho hai người lính xong và đi đến chỗ tù nhân. Mẹ rót cho họ những
cốc nước chanh thật đầy và đưa từng miếng bánh mì đến tận tay của mỗi người”. Câu này dạy đạo đức gì?
7-
“Không khí rất lặng lẽ, trừ vài tiếng “cám ơn” rất khẽ khàng và tiếng xích
va vào nhau kêu lẻng xẻng. Chẳng bao lâu, hai mẹ con tôi đi tới người tù nhân
cuối cùng. Ánh mắt của mẹ dịu dàng nhìn người đó và mỉm cười. Người cuối cùng rất
cao to, có làn da đen sậm và trông rất bẩn do mồ hôi, cát bụi bám vào. Đưa tay
nhận miếng bánh của mẹ tôi, gương mặt của ông giãn ra, đôi môi nở nụ cười biết
ơn. Ông ta nói:
- Thưa bà! Trong cuộc đời của tôi,
tôi tự hỏi không biết bao giờ tôi mới được gặp thiên thần? Cho đến buổi trưa
hôm nay, tôi biết mình đã có diễm phúc đó. Xin cảm ơn bà!”. Câu này dạy đạo đức gì?
8-
“Một lần nữa, mẹ tôi mỉm cười với người tù đó và nhẹ nhàng đáp:
- Rất hoan nghênh các anh ghé đến xóm
nhỏ của chúng tôi. Cầu mong mọi người luôn được bình an!
Sau khi chia hết chỗ thức ăn, hai mẹ
con tôi trở về nhà với chiếc khay và bình nước chanh trống rỗng”. Câu này dạy đạo đức gì?
9-
“Sau đó những người tù lại lên đường, từ đó đến nay tôi không hề gặp lại họ.
Nhưng tôi vẫn còn nhớ lại lời mẹ giải thích vào ngày hôm ấy rằng: “Trong cuộc sống,
chúng ta nên luôn chia sẻ và giúp đỡ người khác, vì như thế là chúng ta đã đem
lại niềm vui cho chính cuộc sống của mình”. Câu này dạy đạo
đức gì?
10- “Mẹ tôi kết thúc câu chuyện bằng nụ
cười dịu dàng rồi đi làm việc nhà như mọi ngày. Tôi không nhớ tối hôm đó mình
ăn những gì, nhưng chỉ biết đã có một thiên thần dọn bữa cho gia đình tôi”. Câu này dạy đạo đức gì?
--o0o--
1-
“Buổi trưa mùa hè năm đó, tôi đang chơi
trong sân nhà, bỗng nghe tiếng xích sắt kêu xủng xoẻng sau lưng. Tôi ngoái đầu
lại nhìn và không thể nào rời mắt khỏi cảnh tượng kỳ lạ ấy. Hai hàng người mặc
đồng phục kẻ xọc xanh trắng rộng thùng thình đang đi trên đường, gương mặt của
họ đầy bụi bặm lẫn mồ hôi. Nhìn mọi người rất mệt mỏi, đã vậy chân còn bị buộc
với nhau bằng sợi xích sắt đen to tướng và kéo theo những hòn bi sắt trông rất
nặng nề. Canh giữ họ là hai người lính cầm súng sẵn sàng trên tay”. Đoạn này dạy đạo đức gì?
Trước khi trả lời
câu hỏi này, học viên phải đọc cho kỹ và lưu ý những từ: “xích sắt kêu xủng xoẻng, gương mặt của họ đầy bụi bậm lẫn mồ hôi. Mọi
người rất mệt mỏi, đã vậy chân còn bị buộc với nhau bằng sợi xích sắt đen to tướng
và kéo theo những hòn bi sắt trông rất nặng nề”. Khi đọc những từ này,
chúng ta biết đây là những người thọ quả khổ, quả khổ của tù tội. Quả khổ tù tội
là do những hành động cướp giật, trộm cắp của người khác hoặc giết người được cảnh
sát, công an bắt giam giữ. Như vậy chúng ta biết đây là NHÂN QUẢ NGHIỆP BÁO
THÂN HÀNH của những người tù này đã tạo ra. Do đó câu này phải trả lời: Đoạn
này dạy THIẾU ĐẠO ĐỨC LY THAM THÂN HÀNH.
Những người tham
lam trộm cắp, cướp giật của cải tiền bạc của người khác là những người xấu ác,
là những con người mặt người mà lòng thú vật nên chỉ biết cướp giật của cải tài
sản của người khác để ăn, để phục vụ vui chơi cá nhân của mình là những người
không đáng sống trong xã hội loài người.
Khi xã hội loài
người bất cứ một nước nào trên thế giới, nếu thấy có xuất hiện những hạng người
tham lam, trộm cắp, cướp giật, móc túi, tiêu cực, ăn lo hối lộ thì nên xem xét
lại những sự kiện sau đây:
-
Thứ nhất là nên xem xét lại vua quan sống có đúng tiêu chuẩn đạo
đức nhân bản - nhân quả hay không?
-
Thứ hai là xem xét về vấn đề giáo dục đào tạo có lấy môn học đạo
đức nhân bản - nhân quả làm cơ sở xây dựng con người không?
-
Thứ ba là xem xét sự phát triển kinh tế khoa học, kỹ nghệ phục
vụ đời sống con người có đúng tiêu chuẩn đạo đức nhân bản - nhân quả hay không?
-
Thứ tư là xem xét sự phát triển thương mại có đúng tiêu chuẩn
đạo đức nhân bản - nhân quả hay không?
Nếu bốn điều xem
xét trên đây mà được đem ra áp dụng giáo dục đào tạo đầy đủ cho nhân dân thì
trong đất nước ấy sẽ không có người tham lam, trộm cắp, cướp giật, giết người nữa.
Một đất nước
không có tù nhân là một đất nước không có người tham lam, trộm cắp, cướp giật,
móc túi, giết người, v.v..
Một đất nước mà mọi
người dân đều biết sống với đức ly tham thì đất nước ấy nhà ngủ không đóng cửa,
của rơi ngoài đường không ai lượm. Bởi vậy sự giáo dục đào tạo đức ly tham là
điều cần thiết cho tất cả các nước trên hành tinh này. Mỗi con người sinh ra đều
phải được giáo dục đức ly tham cho thấm nhuần, cho thuần thục thì thế giới
không có chiến tranh, mỗi đất nước đều có trật tự, an ninh, phồn vinh, thịnh trị,
mỗi gia đình người người đều chia sẻ ngọt bùi cay đắng, họ đều ban tình thương
chan hòa cho nhau, mỗi cá nhân thì tâm hồn thanh thản, an lạc và vô sự, sống với
một niềm vui bất tận.
--o0o--
2-
“Tôi chỉ biết đứng ngây người, nhìn
đoàn người tù tội nghiệp ấy lê bước đến dưới bóng râm của tàn cây duy nhất bên
đường. Bỗng một người lính tiến về phía tôi. Đi ngang qua tôi, anh khẽ gật đầu
chào rồi thẳng tới gõ cửa nhà tôi. Mẹ tôi xuất hiện, tôi chỉ nghe loáng thoáng
tiếng anh lính xin phép mẹ tôi lấy nước ở vòi nước trước sân cho đoàn người tù
uống. Mẹ tôi đồng ý, nhưng tôi thấy vẻ mặt của mẹ tôi khá lo lắng và gọi tôi
vào nhà”. Câu này dạy ĐỨC HIẾU SINH BỐ THÍ THÂN HÀNH.
Hai người lính
này làm nhiệm vụ đưa tù về trại, nhưng họ đều là những người sống có tình
thương yêu, vì thấy những người tù khát nước, nên họ đi xin nước cho những người
tù tội này đỡ khát. Một hành động hiếu sinh thật đáng khen. Tuy những người này
có tội, nhưng họ vẫn là con người thì chúng ta phải đối xử với họ như những người
khác. Vì thế đối với họ phải có một tình thương yêu rộng lớn vô bờ bến để khiến
cho họ biết được là không ai ghét bỏ họ, đang đối xử với họ một tình thương yêu
chân thật từ trong trái tim.
--o0o--
3-
“Đứng sau cửa sổ, tôi dán mắt nhìn những
người tù lê bước tới chỗ vòi nước. Trong cái nắng như thiêu, như đốt, họ xếp
thành một hàng dài, chờ người đứng trước uống xong rồi mới được nhích lên đến
chỗ vòi nước, hứng đầy nước vào một cái ca nhỏ, rồi hấp tấp uống cạn trong sự
giám sát của hai người lính. Lần lượt từng người như thế nên một lúc lâu sau,
đoàn người tù cùng hai anh lính mới trở lại núp dưới bóng râm hiếm hoi của tàn
cây bên kia đường”. Câu này dạy ĐẠO ĐỨC NHÂN QUẢ NGHIỆP
BÁO.
Do lòng tham lam
trộm cắp, cướp của, giết người nên mới bị tù tội như thế này. Chân bị xiềng
xích đi phải kéo lê hòn bi sắt nặng, uống nước phải xếp hàng, chứ không được tự
do chạy nhảy như những người vô tội. Trông thật là tội nghiệp, nhưng biết làm
sao hơn, vì chính họ là những người tạo ra những nhân quả ác thì phải gặt lấy
những quả tù tội khổ sở như thế này.
Không ai làm khổ
cho ai bằng chính mình đã tự làm khổ mình. Nếu không do lòng tham lam trộm cắp,
cướp của, giết người thì làm gì họ phải chịu tù tội và khổ sở như thế này.
Cho nên nhân nào
quả nấy, không ai có thể tránh khỏi qui luật nhân quả, vì thế chúng tôi có lời
khuyên quý vị đừng xem thường luật nhân quả mà phải gánh hậu quả khó lường.
Luật nhân quả tuy
không có tòa án, không có người thi hành luật, nhưng bản án nó không hề sai
sót, không hề xử oan ức cho một người nào cả. Lưới trời lồng lộng nhưng không
ai trốn thoát khỏi luật này.
Trong cuộc đời
này mọi chuyện xảy ra không có sự ngẫu nhiên, mà mọi việc xảy ra đều do qui luật
nhân quả điều khiển và sắp xếp hẳn hoi. Nó là tòa án lương tâm của quý vị. Cho
nên quý vị làm một điều ác gì thì cũng không che dấu nó được, dù chuyện đó chỉ
có một mình quý vị biết mà thôi. Nó chẳng bao giờ điều tra quý vị, nhưng khi
thi hành bản án của quý vị thì nó thi hành chẳng bao giờ sai, thi hành án đúng
người, đúng tội không bao giờ sai một li hào nào cả. Luật nhân quả rất công bằng
và công minh mà mọi người trên hành tinh thường gọi là luật trời.
Cho nên quý vị
coi chừng không qua mặt luật nhân quả được đâu, không tránh né nó được đâu, nó
luôn ở trong tâm quý vị. Buồn, vui, sầu khổ, phiền não, tức giận, v.v.. đó là
trạng thái của nhân quả. Chửi mắng, đánh đập, tham lam, uống rượu, bài bạc, nói
dối, giết hại chúng sinh, v.v.. đều là nhân quả cả. Bởi vậy nhân quả luôn có mặt
ở mọi nơi, mọi hướng, mọi thời gian, mọi hành động. Một hành động ác coi chừng
nó sẽ mang đến hậu quả khổ đau, còn một hành động thiện nó sẽ mang đến an vui
cho mình, cho người.
Những người tù
đang thọ quả khổ là làm thân tù tội bị buộc dây xích, đi, đứng khó khăn hiện giờ,
nhưng chính trước kia đã làm những hành động nhân quả ác, gây tai họa cho người,
nên nay mới thành những người tù tội, đi đứng không còn tự do, muốn theo ý mình
không thể được nữa. Cho nên thấy ai thọ khổ hay hưởng phước báu an vui đều biết
ngay là nhân quả nghiệp báo. Một con người đang sống là còn đang trong vòng tay
của nhân quả. Thân tâm khổ hay vui cũng đều trong vòng của nhân quả. Người
không có trí thì không thấy được điều này. Không thấy được điều này nên họ sống
rất bình thường, họ sống tới đâu hay đến đó, khổ thì rên la kêu khóc, than thở,
trách móc; còn vui thì cười nói hân hoan. Còn nếu ai thấy biết rõ điều này thì
rất sợ hãi, vì chính mình cũng đang ở trong lưới rập của nhân quả, ở trong vòng
vây hay lọt ổ phục kích của nhân quả, nếu không mau chân thì chắc chắn phải chết
trong đau khổ, mà không những một kiếp mà nhiều kiếp khác nữa.
--o0o--
4-
“Tôi nghe tiếng mẹ gọi tôi trong bếp.
Tôi chạy đến và thấy mẹ mở tủ lạnh lấy ra hết các hộp cá mòi, bơ, bánh mì, vốn
là bữa ăn tối của gia đình tôi - cùng hai bình nước chanh đã pha xong. Mẹ nhanh
nhẹn sắp các thức ăn ấy vào chiếc khay lớn. Mẹ đưa cho tôi một bình, bảo cầm lấy
rồi đi theo mẹ. Còn mẹ một tay cầm khay, một tay cầm chiếc bình còn lại đi ra cửa”. Câu này dạy ĐỨC BỐ THÍ HIẾU SINH THÂN HÀNH.
Đây là một hành động đạo đức bố thí hiếu sinh thân hành tuyệt vời. Mặc dù
bà biết rất rõ những người tù tội là những người làm ác, tham lam, trộm cắp, cướp
giật, giết người, v.v.. nhưng trước cảnh đói khát mệt nhọc khổ sở của họ, bà
không thể làm ngơ, vì họ cũng chỉ là những con người như mọi người khác. Cho
nên chúng ta không có quyền làm ngơ bỏ mặc họ, mà phải làm những gì an ủi họ,
giúp họ trở về nhân tính con người. Dù họ có làm tội ác, nhưng họ vẫn là những
con người đáng được yêu thương như bao nhiêu người khác.
Hành động mang thực
phẩm và nước chanh cho những người tù đang cơn đói khát để họ lót dạ, đỡ lòng
là một hành động đạo đức bố thí với lòng yêu thương chân thật, không phân biệt
người có tội hay không có tội thật là tuyệt vời. Ở đây chúng ta chỉ thấy những
người đang khổ là chúng ta giúp mà thôi. Còn tất cả những gì họ làm là họ phải
trả vay theo luật định của nhân quả.
Những trận động đất,
thủy tai, sóng thần, bão tố, lũ lụt, núi lửa hoặc là chiến tranh, v.v.. làm hư
hại nhà cửa tan nát như đống gạch vụn, người chết nằm ngổn ngang đó là những hiện
tượng nhân quả trả vay của những người làm ác, nếu không làm ác thì sao lại có
những hiện tượng này xảy ra?
Một trận bão tố
đi qua một vùng nào để lại một sự đổ nát, người vật chết ngổn ngang là do những
người ở vùng ấy sống gian ác, hung dữ, thường săn bắn thú rừng, thường chài lưới
câu tôm, bắt cá, giết hại và ăn thịt chúng sinh, vì thế biết bao nhiêu sinh mạng
của chúng sinh chết trong bàn tay của họ. Do sống ác như vậy nên người chết nằm
ngổn ngang lớp lớp, của cải tài sản tan nát, còn người sống thì màn trời chiếu
đất, sống nhờ tình thương của người khác. Đó là vay trả theo luật nhân quả, làm
ác thì phải gặt lấy quả khổ, không thể ai tránh khỏi.
Trước cảnh đó
chúng ta biết rất rõ, họ là những người làm ác, nên phải gặt lấy những quả khổ
đau như vậy. Nhưng là con người, dù họ làm ác tạo bao cảnh khổ cho muôn loài vật,
chúng ta cũng không thể làm ngơ trước cảnh khổ đau của họ. Cho nên khi gặp cảnh
ngộ của kẻ khác chúng ta sẵn sàng giúp đỡ với một tình thương yêu chân thành từ
trái tim, chứ không phải giúp đỡ họ để cầu danh, để dựa vào từ thiện đó, lợi dụng
sự bố thí để làm nghề nghiệp bất chính.
Chúng tôi có nghe
những đoàn đi làm từ thiện miền Trung do những trận bão vừa qua. Đoàn đi cứu trợ
trước cảnh nhà tan cửa nát người chết, thế mà đoàn cứu trợ vui chơi ca hát trên
xe được. Như vậy họ làm từ thiện có đúng nghĩa không? Vui chơi trên sự đau khổ
của người khác. Đấy cũng là một hành động ác, quý vị ạ!
Vì làm từ thiện
theo phong trào kêu gọi của Nhà nước, chứ không phải xuất phát do lòng yêu
thương chân thật của mình từ trong trái tim biết thương người bất hạnh.
Cho nên làm từ
thiện mà không gặp từ thiện, mà lại gặp toàn ác pháp, mà lại gặp tai nạn giao
thông người chết, tay chân gẫy vụn như những thớt thịt bán ngoài chợ Bến Thành,
thật là thảm thương. Đi cứu trợ mà xe bay xuống đèo chết một cách rất là khổ
đau.
Ở đây chúng ta thấy
người mẹ này với lòng thương yêu chân thật từ trong trái tim của người. Không
ai kêu gọi người, tự người chứng kiến cảnh đói khát của những người tù, rồi tự
người mang thức ăn và nước uống đến và tự trao tận tay cho mỗi người với cái
nhìn và hành động nhẹ nhàng trân trọng đối với mọi người tràn đầy lòng yêu
thương.
Đây mới thật sự
là đức bố thí hiếu sinh thân hành, còn phần vật chất thực phẩm và nước uống chỉ
là tượng trưng cho lòng yêu thương ấy. Người mẹ này tuyệt vời, thật đúng là một
thiên thần.
Chúng ta hãy bố
thí lòng yêu thương như bà mẹ này, bố thí như vậy mới thật sự là đức bố thí ly
tham hiếu sinh thân hành. Hiện nay chúng ta đang theo học lớp rèn luyện nhân
cách đạo đức ly tham hiếu sinh thân, khẩu, ý hành này. Nếu người nào học tập và
hoàn thành được lớp học đạo đức này thì sẽ mang lại hạnh phúc và sự an vui cho
mình, cho mọi người và cho tất cả những loài chúng sinh.
--o0o--
5-
“Hai mẹ con tôi tiến tới chỗ hai người
lính và mẹ tôi nói:
- Nhà tôi có sẵn một chút thức ăn cho
bữa trưa, anh cho phép chúng tôi được san sẻ với hai anh và những người này nữa
nhé!”. Câu này dạy ĐỨC LỄ ĐỘ BỐ THÍ HIẾU SINH KHẨU HÀNH.
Đem bố thí cho
người khác mà lời nói rất lễ độ, đầy vẻ cung kính và tôn trọng người khác. Thật
là tuyệt vời! Chúng ta nên noi theo gương hạnh của người mẹ này khi muốn bố thí
cho ai một món gì thì chúng ta nên nhớ: Phải cho bằng tình thương yêu chân thật
từ trong trái tim của mình với những hành động nhẹ nhàng, ánh mắt, nụ cười thân
thương.
Qua bài học này,
chúng ta học được đức ly tham bằng những hành động bố thí, bằng đức hiếu sinh
thân hành, khẩu hành và ý hành rất tuyệt vời của người mẹ. Một hành động bố thí
mà mang đầy đủ ba đức rất cụ thể rõ ràng như:
1- Đức ly tham.
2- Đức bố thí.
3- Đức hiếu sinh.
Do lòng yêu
thương (đức hiếu sinh), nên bà đem thực phẩm và nước uống cho những tù nhân (đức
bố thí), do lòng không bỏn xẻn ích kỷ, tiếc của nên bà đem cho (đức ly tham).
Cho nên, học đạo đức chúng ta phải lưu ý và xem xét cho thật kỹ. Khi áp dụng một
đức hạnh vào đời sống bằng một hành động đạo đức nào là chúng ta đã thực hiện
nhiều đức hạnh khác.
Một hành động của
bà mẹ đem thực phẩm và nước uống cho tù nhân đúng thời điểm, đúng đối tượng,
nên nó mang đầy đủ ba đức trong người mẹ này như trên đã nói, quý vị có thấy
không?
Hành động bố thí
như bà mẹ này mà Thiên Chúa Giáo cho bà là thiên thần. Như vậy thiên thần trong
Thiên Chúa Giáo đâu nghĩa là những vị thần thánh siêu hình có cánh bay như
chim, mà thiên thần là những con người sống có đức hiếu sinh, có đức bố thí và
có đức ly tham. Có đúng như vậy không thưa quý vị?
Tóm lại, con người
rất cần rèn luyện cho mình những đức hạnh cao thượng như trên: đức hiếu sinh, đức
hạnh ly tham và đức bố thí để cuộc sống hằng ngày không làm khổ mình, khổ người
và khổ tất cả chúng sinh; để cuộc sống hằng ngày với tâm bất động và thanh thản,
an lạc và vô sự tuyệt vời, tràn đầy hạnh phúc.
--o0o--
6-
“Hai người lính nhìn sững mẹ con tôi
trong giây lát rồi gật đầu cám ơn. Mẹ chia thức ăn cho hai người lính xong và
đi đến chỗ tù nhân. Mẹ rót cho họ những cốc nước chanh thật đầy và đưa từng miếng
bánh mì đến tận tay của mỗi người”. Câu này dạy ĐỨC HIẾU
SINH THÂN HÀNH, LY THAM BỐ THÍ tuyệt vời.
Một hành động
trao bánh và rót từng cốc nước chanh giống như người mẹ chăm sóc những đứa con
thơ dại, một hành động yêu thương tuyệt vời, một hành động ban tình thương đến
mọi người; một hành động gồm ba đức như trên đã nói: hiếu sinh, bố thí, ly tham
nên mới làm được như vậy.
Chúng ta là những
người tu theo Phật giáo phải cố gắng sống với đức ly tham, vì trong đức ly tham
sẽ có đầy đủ các đức khác như đức hiếu sinh, đức bố thí, v.v.. Đức ly tham làm
gốc, có đức ly tham thì mới có lòng yêu thương chân thật; có lòng yêu thương
chân thật thì mới có lòng bố thí. Nhưng muốn thực hiện được đời sống đức ly
tham thì phải sử dụng đức hiếu sinh và đức bố thí. Đức hiếu sinh và đức bố thí
là những pháp môn tu tập và rèn luyện đức ly tham.
Cho nên đức ly
tham rất quan trọng trong sự tu tập làm chủ sinh, già, bệnh, chết. Vì vậy trước
mắt chúng ta đều thấy các pháp là vô thường, là khổ, là vô ngã. Có như vậy chúng
mới buông xả sạch, tâm mới bất động hoàn toàn trước các ác pháp.
Tóm lại, trong cuộc
sống hằng ngày, chúng ta phải luôn sống với lòng yêu thương đối với mọi người,
mọi loài bằng những hành động ban cho, từ sự tư duy tốt đẹp ở người khác. Không
nên nghĩ xấu người khác, mà hãy nghĩ người khác tốt, hiền, Thánh thiện như ông
Phú Lâu Na đã nghĩ: “Người ta còn thương
con”. Về lời nói luôn phải dùng lời ái ngữ, nói lời êm dịu, nhẹ nhàng, nói
tốt cho người, chứ không nói xấu người. Về hành động thì nên bố thí san sẻ với
những người bất hạnh, với những người già yếu neo đơn tật nguyền, với những người
đang cần sự giúp đỡ. Chúng ta hãy hỗ trợ khi gặp người nghèo khó. “Một miếng khi đói bằng một gói khi no”
và “Thương người như thể thương thân”.
Đó là những lời khuyên dạy của người xưa, chúng ta hãy nhớ, đừng quên.
--o0o--
7-
“Không khí rất lặng lẽ, trừ vài tiếng
“cám ơn” rất khẽ khàng và tiếng xích va vào nhau kêu lẻng xẻng. Chẳng bao lâu,
hai mẹ con tôi đi tới người tù nhân cuối cùng. Ánh mắt của mẹ dịu dàng nhìn người
đó và mỉm cười.
Người cuối cùng rất cao to, có làn da
đen sậm và trông rất bẩn do mồ hôi, cát bụi bám vào. Đưa tay nhận miếng bánh của
mẹ tôi, gương mặt của ông giãn ra, đôi môi nở nụ cười biết ơn. Ông ta nói:
- Thưa
bà! Trong cuộc đời của tôi, tôi tự hỏi không biết bao giờ tôi mới được gặp
thiên thần? Cho đến buổi trưa hôm nay, tôi biết mình đã có diễm phúc đó. Xin cảm
ơn bà!”. Câu này dạy ĐỨC HOAN HỶ HIẾU SINH THÂN HÀNH.
Trong cảnh tù tội,
tưởng chừng như mọi người ai cũng xa lánh và chán ghét, vì những người này có
hành động trộm cắp, cướp của, giết người hoặc hiếp dâm làm ô nhục phụ nữ, làm
tan nát nhà cửa, gia đình mình, gia đình người khác, v.v.. Nhưng cuộc đời không
phải vậy, có những người rất tốt, họ luôn nghĩ đến mọi người đều là những người
tốt. Họ không bao giờ dám nghĩ những người khác xấu ác.
-
Thứ nhất: Những người xấu
ác là những người bị rơi vào hoàn cảnh xấu ác, chỉ vì họ gặp những hoàn cảnh
quá khắc nghiệt, quá phũ phàng, khiến họ không lối thoát, buộc họ phải làm những
hành động ác đó để vươn lên cuộc sống của chính mình. Những người này chúng ta
hãy thương yêu và tha thứ, họ là những người rất tội nghiệp. Vì hoàn cảnh buộc
họ phải trở thành người xấu ác, hoặc vì những âm mưu của kẻ khác hãm hại mà họ
phải chịu thân tù tội. Cho nên những người tù đâu phải là những người xấu hết
sao?
-
Thứ hai: Vì nền giáo dục
của Đất nước đó không quan tâm đến môn học đạo đức, nên mọi người dân xứ đó
không hiểu biết đạo đức mới có những hành động vô đạo đức tham lam, trộm cắp,
cướp của giết người, hiếp dâm... Đó là lỗi của gia đình và xã hội, chứ mọi người
đều đáng thương.
-
Thứ ba: Vì gia đình
không lưu ý dạy đạo đức cho con cái, cứ giao phó cho nhà trường, bỏ mặc con cái
sống chạy theo dục lạc đồi trụy như thế nào cũng được. Trong khi đạo đức xã hội
trên đà xuống cấp trầm trọng, lôi theo những thanh thiếu niên nam nữ vào con đường
tội ác. Đó là lỗi của gia đình và xã hội, chứ các em thanh thiếu niên nam nữ rất
đáng thương, đáng giúp đỡ và dạy bảo.
Hôm nay ngày càng
có nhiều người trộm cắp, cướp của, giết người, càng có nhiều người hiếp dâm làm
ô nhục phụ nữ, càng có nhiều người rượu chè say xỉn, vũ phu đánh chửi vợ con
thì chúng ta nên xét lại nền giáo dục đạo đức các trường học của quê hương, xứ
sở và nền giáo dục đạo đức của gia đình.
Đạo đức đem lại sự
sống bình an của mỗi cá nhân con người; đạo đức đem lại mỗi gia đình hòa thuận,
an vui và hạnh phúc; đạo đức đem lại cho đất nước trật tự, an ninh phồn vinh và
thịnh trị. Vì vậy đạo đức rất cần thiết cho đời sống cá nhân, đời sống tập thể
gia đình và đời sống tập thể cộng đồng xã hội.
--o0o--
8-
“Một lần nữa, mẹ tôi mỉm cười với người
tù đó và nhẹ nhàng đáp:
- Rất hoan nghênh các anh ghé đến xóm
nhỏ của chúng tôi. Cầu mong mọi người luôn được bình an!
Sau khi chia hết chỗ thức ăn, hai mẹ
con tôi trở về nhà với chiếc khay và bình nước chanh trống rỗng”. Câu này dạy ĐỨC HIẾU SINH KHẨU HÀNH.
Một nụ cười mỉm mến
thương và một lời nói thân ái thể hiện đức hiếu sinh với những người đang đau
khổ của người mẹ đúng lúc, đúng đối tượng thật là tuyệt vời. Nếu trên cuộc đời
này ai ai cũng biết thể hiện lòng yêu thương như vậy thì làm gì có những sự
trái ý nghịch lòng; thì làm gì có những chướng ngại trong tâm của mình và của mọi
người.
Bố thí lòng yêu
thương nào cũng không bằng bố thí lời nói ái ngữ, hành động êm dịu nhẹ nhàng,
ánh mắt hiền hòa, nụ cười thân thương. Muốn được vậy điều cần thiết là chúng ta
phải tu tập đức bình tĩnh. Có bình tĩnh trước các ác pháp thì chúng ta mới sáng
suốt, có sáng suốt chúng ta mới có lòng tha thứ mỗi lỗi lầm của kẻ khác, mới thật
lòng yêu thương họ, có lòng yêu thương họ thì mới có lòng bố thí lời nói ngọt
ngào êm dịu, hành động nhẹ nhàng âu yếm, thì mới có ánh mắt nụ cười thân
thương.
Toàn bộ những
hành động trên đây là những pháp hành để tu tập tâm ly tham trọn vẹn. Bởi vậy
con người lìa được tâm tham là lìa cả năm ngũ triền cái, tức là lìa THAM, SÂN,
SI, MẠN, NGHI. Một khi đã lìa được tâm tham, sân, si, mạn, nghi, là chúng ta
làm chủ sinh, già, bệnh, chết và chấm dứt tái sinh luân hồi.
Chúng ta tu học
giới luật đức hạnh cho nghiêm túc sẽ có nhiều lợi ích:
-
Lợi ích thứ nhất của giới luật đức hạnh là giúp cho
chúng ta trở thành con người có một tâm hồn cao thượng, luôn lúc nào cũng biết
thương người, chứ không bao giờ biết ghét ai cả, biết ly tham, biết bố thí với
mọi sự bố thí đúng pháp.
-
Lợi ích thứ hai của giới luật là tâm không có tham
lam, không có lấy của người khác, dù cây kim sợi chỉ hay bất cứ một vật gì của
người khác. Cuộc đời tu hành theo Phật giáo chỉ biết lấy đức thiểu dục tri túc
làm sự sống, vì thế tâm hồn lúc nào cũng thanh thản, an lạc và vô sự. Một trạng
thái Niết Bàn vô lậu, khinh an hỷ lạc tuyệt vời.
-
Lợi ích thứ ba của giới luật là làm chủ sinh, già,
bệnh, chết. Cho nên tâm không còn sợ sệt trước các đối tượng ác; không còn sợ sệt
tuổi già sức yếu; không còn sợ sệt bệnh tật; không còn sợ sệt trước cái chết.
Khi tâm không còn sợ sệt thì tâm đã bất động. Tâm bất động đó là mục đích của
Phật giáo đã đạt được.
Như vậy sự tu tập
của chúng ta chỉ cần giữ gìn cho được đức ly tham. Nếu đức ly tham luôn ngự trị
ở trong tâm ta thì trên đời này không có pháp nào là ta, là của ta, là bản ngã
của ta nữa. Đó là chúng ta đã diệt ngã, xả tâm, ly dục ly ác pháp hoàn toàn.
Thành tựu viên
mãn con đường tu tập đến nơi đến chốn Niết Bàn vĩnh cửu. Phật pháp tu tập đến
đây là xong việc, từ đây về sau chỉ ngồi chơi, còn duyên độ chúng sinh, hết
duyên thì nhập Niết Bàn. Cuộc đời này có gì mà phải tiếc, phải dính mắc, phải
tham đắm; cuộc đời này có gì mà cám dỗ được tâm chúng ta nữa đâu. Phải không
các tu sinh?
--o0o--
9-
“Sau đó những người tù lại lên đường, từ
đó đến nay tôi không hề gặp lại họ. Nhưng tôi vẫn còn nhớ lại lời mẹ giải thích
vào ngày hôm ấy rằng: “Trong cuộc sống, chúng ta nên luôn chia sẻ và giúp đỡ
người khác, vì như thế là chúng ta đã đem lại niềm vui cho chính cuộc sống của
mình”. Câu này dạy ĐỨC BỐ THÍ HIẾU SINH Ý HÀNH.
Bố thí trong lòng
yêu thương chân thật (đức hiếu sinh) như người mẹ đã nói: “Trong cuộc sống, chúng ta nên luôn chia sẻ và giúp đỡ người khác, vì
như thế là chúng ta đã đem lại niềm vui cho chính cuộc sống của mình”.
Chính vì lòng yêu thương những người bất hạnh mà chúng ta đến giúp đỡ và an ủi
họ bằng những vật chất, quà bánh biếu tặng hoặc bằng lời nói âu yếm, nụ cười
thân thương hoặc bằng những hành động nhẹ nhàng xoa dịu vết thương đau tinh thần
cũng như vật chất cơ thể.
Một người đang
sân giận, dữ tợn chửi mắng, mạ lị, mạt sát, nói xấu ta, nhưng ta không tức giận,
không chửi mắng, nói xấu lại họ. Ngược lại, ta mở rộng lòng thương yêu và tha
thứ cho họ, đó là ta đã biết bố thí đức hiếu sinh cho kẻ bất hạnh.
Cho nên đứng trước
các ác pháp mà biết bố thí đức hiếu sinh thì đó là chúng ta đã ly tham bản ngã,
ly tham bản ngã tức là diệt ngã xả tâm ly dục ly ác pháp, quý vị có biết không?
Đức ly tham rất cần
thiết cho sự tu tập thiền định của Phật giáo, vì mục đích của nó là ly dục ly
ác để nhập Sơ Thiền, nên những người tu tập theo thiền của Phật giáo mà giới đức
ly tham không có thì không bao giờ tu tập đúng thiền của Phật giáo. Cho nên người
tu thiền thời nay cần nên cảnh giác tà thiền ngoại đạo đang lẫn lộn trong kinh
sách Phật giáo.
Thiền mà không giới
luật làm gốc thì đó là thiền ngoại đạo. Thiền định đó tu hành chẳng có lợi ích
gì, chỉ phí công sức và nhiều khi còn tai hại làm rối loạn thần kinh, sinh ra bệnh
tật điên khùng loạn trí rất nguy hiểm. Một loại thiền tưởng mà các sư, các thầy
tu tập hiện giờ thường dẫn đến bệnh tật tưởng là mình đắc thiền, đắc định, rồi
thấy Phật, thấy Tổ, thấy ánh sáng hào quang, nghe chư thiên nói chuyện, thấy biết
chuyện quá khứ vị lai, nhưng lại không làm chủ sinh, già, bệnh, chết. Thật là
khổ đau vô cùng vô tận!
--o0o--
10- “Mẹ tôi kết thúc
câu chuyện bằng nụ cười dịu dàng rồi đi làm việc nhà như mọi ngày. Tôi không nhớ
tối hôm đó mình ăn những gì, nhưng chỉ biết đã có một thiên thần dọn bữa cho
gia đình tôi”. Câu này dạy ĐỨC HOAN HỶ HIẾU SINH Ý HÀNH.
Khi sống với đức
bố thí hiếu sinh thì lòng chúng ta vui sướng biết bao! Sự sung sướng ấy đó
chính là thiên thần trong ta.
Một người sống
đúng giới luật đức hạnh hiếu sinh, đức hạnh bố thí và đức hạnh ly tham thì tâm
người đó đã được giải thoát hoàn toàn, thật là hạnh phúc vô biên!
Người mẹ tốt bụng
đem những thực phẩm ăn chiều của gia đình mình cho những người khác đang đói khổ
hơn mình. Một hành động tuy nhỏ như vậy nhưng cũng nói lên đức hy sinh tuyệt vời.
Người mẹ và các con của bà đều vui mừng. Vui mừng vì cái vui của người khác.
Trên đời này, cái
vui cho mình chưa bao giờ là cái vui trọn vẹn, còn cái vui của mình, của người
và của tất cả chúng sinh là cái vui vĩnh viễn. Cái vui vĩnh viễn là cái vui
trong đạo đức ly tham, đạo đức hiếu sinh và đạo đức bố thí. Trong ba đạo đức
này, chúng ta chỉ cần sống trong một đạo đức cũng đủ đem lại niềm vui cho mình,
cho người và cho tất cả các loài chúng sinh.
Đạo đức lợi ích
như vậy, cho nên chúng ta hãy cố gắng tu tập để đem lại cho thế gian một sự
bình an như cõi Cực Lạc Thiên Đàng. Chỉ có con người mới tô đắp nền đạo đức này
trên hành tinh, mới làm cho hành tinh sống của chúng ta ngày một tươi đẹp hơn,
sáng sủa hơn.
Nền đạo đức của
Phật giáo rất tuyệt vời, bình đẳng, gần gũi với đời sống con người, rất thực tế
và cụ thể chứ không mơ hồ trừu tượng, không giáo điều khắt khe, không cám dỗ
lôi cuốn ai cả. Chỉ có người nào thấy đúng là lợi ích cho mình, cho người thì tự
giác tự nguyện sống với những đức hạnh này. Cho nên nền đạo đức của Phật giáo
là nền đạo đức tự nguyện. Tự nguyện sống đời đức hạnh để đem mình thoát ra bao
thứ đau khổ: sinh, già, bệnh, chết mà đời người không ai tránh khỏi.
BÀI HỌC THỨ TƯ:
RÈN NHÂN CÁCH
ĐẠO ĐỨC LY THAM Ý HÀNH, THÂN HÀNH, KHẨU HÀNH:
Ngày xưa, ở trong vùng nông thôn xa
xôi, có hai anh em nhà kia trẻ tuổi đáng yêu. Họ cũng giống như bất cứ chàng
trai trẻ nào mà bạn có thể bắt gặp hôm nay. Tuy nhiên, tính khí của hai anh em
rất ngỗ nghịch. Và mọi việc trở nên nghiêm trọng khi hai anh em bắt đầu đi ăn
trộm cừu của những nông dân trong vùng - một hành vi bị coi là trọng tội. Một lần
nọ, cả hai anh em bị bắt quả tang. Dân làng quyết định trừng phạt bằng cách
thích lên trán họ chữ “ST” (tên trộm cừu), như một dấu ấn tội lỗi sẽ theo họ
mãi mãi suốt đời.
Một trong hai anh em vì quá xấu hổ,
nên đã bỏ làng đi biệt xứ. Kể từ đó, chẳng còn ai biết được tin tức gì về anh
ta.
Còn người thứ hai, vô cùng ân hận,
đã ở lại làng và cố gắng hết sức để bù đắp lại những lỗi lầm của mình. Lúc đầu,
mọi người đều e dè và chẳng muốn dính líu gì với anh ta. Tuy nhiên, anh vẫn quyết
tâm hoán cải.
Hễ trong làng có ai đau yếu, anh đều
tìm đến ân cần chăm sóc và lo lắng. Bất cứ ai có việc gì nặng nhọc, anh đều tới
giúp đỡ hết mình, chẳng cần biết đó là ai, giàu hay nghèo. Cứ như thế, anh luôn
sống vì người khác mà chẳng hề đòi ban thưởng hay trả công.
Nhiều năm trôi qua, một bữa nọ, có
một vị khách bộ hành đi ngang qua ngôi làng. Trong lúc ngồi ở trong quán nước
bên đường, ông trông thấy một ông lão, trên trán có khắc một dấu khác lạ ngồi gần
đó. Bất kỳ ai trong làng đi ngang qua cũng đều dừng lại kính cẩn chào hỏi cụ;
đám trẻ con chơi xong cũng chạy đến sà vào lòng cụ. Tất cả mọi người đều kính
trọng ông lão.
Thấy ngạc nhiên, người khách lại hỏi
thăm vị chủ quán:
- Hai ký tự trên
trán ông cụ có nghĩa là gì thế?
- Tôi cũng không
rõ nữa. Chuyện xảy ra cách đây đã lâu lắm rồi - người chủ quán đáp. Sau đó, ông
ngừng lại suy nghĩ một chút rồi nói - nhưng theo tôi chắc nó có nghĩa là “Thánh
nhân”.
(ST có hai nghĩa theo tiếng Anh:
“Sheep Thief” là tên trộm cừu và “Saint” là Thánh nhân)
(Trích trong Hạt Giống Tâm Hồn,
tập 2, trang
63)
1-
“Ngày xưa, ở trong vùng nông thôn xa xôi, có hai anh em nhà kia trẻ tuổi
đáng yêu. Họ cũng giống như bất cứ chàng trai trẻ nào mà bạn có thể bắt gặp hôm
nay. Tuy nhiên, tính khí của hai anh em rất ngỗ nghịch. Và mọi việc trở nên
nghiêm trọng khi hai anh em bắt đầu đi ăn trộm cừu của những nông dân trong
vùng - một hành vi bị coi là trọng tội”. Câu này dạy đạo
đức gì?
2-
“Một lần nọ, cả hai anh em bị bắt quả tang. Dân làng quyết định trừng phạt
bằng cách thích lên trán họ chữ “ST” (tên trộm cừu), như một dấu ấn tội lỗi sẽ
theo họ mãi mãi suốt đời”. Câu này dạy đạo đức gì?
3-
“Một trong hai anh em vì quá xấu hổ, nên đã bỏ làng đi biệt xứ. Kể từ đó,
chẳng còn ai biết được tin tức gì về anh ta”. Câu này dạy đạo
đức gì?
4-
“Còn người thứ hai, vô cùng ân hận, đã ở lại làng và cố gắng hết sức để bù
đắp lại những lỗi lầm của mình. Lúc đầu, mọi người đều e dè và chẳng muốn dính
líu gì với anh ta. Tuy nhiên, anh vẫn quyết tâm hoán cải”. Câu này dạy đạo đức gì?
5-
“Hễ trong làng có ai đau yếu, anh đều tìm đến ân cần chăm sóc và lo lắng.
Bất cứ ai có việc gì nặng nhọc, anh đều tới giúp đỡ hết mình, chẳng cần biết đó
là ai, giàu hay nghèo. Cứ như thế, anh luôn sống vì người khác mà chẳng hề đòi
ban thưởng hay trả công”. Câu này dạy đạo đức gì?
6-
“Nhiều năm trôi qua, một bữa nọ, có một vị khách bộ hành đi ngang qua ngôi
làng. Trong lúc ngồi ở trong quán nước bên đường, ông trông thấy một ông lão,
trên trán có khắc một dấu khác lạ ngồi gần đó. Bất kỳ ai trong làng đi ngang
qua cũng đều dừng lại kính cẩn chào hỏi cụ; đám trẻ con chơi xong cũng chạy đến
sà vào lòng cụ. Tất cả mọi người đều kính trọng ông lão”. Câu này dạy đạo đức gì?
7-
“Thấy ngạc nhiên, người khách lại hỏi thăm vị chủ quán:
-
Hai ký tự trên trán ông cụ có nghĩa là gì thế?
-
Tôi cũng không rõ nữa. Chuyện xảy ra cách đây đã lâu lắm rồi - người chủ
quán đáp. Sau đó, ông ngừng lại suy nghĩ một chút rồi nói - nhưng theo tôi chắc
nó có nghĩa là “Thánh nhân”.
(ST có hai nghĩa theo tiếng Anh:
“Sheep Thief” là tên trộm cừu và “Saint” là Thánh nhân)”. Câu này dạy đạo đức gì?
--o0o--
1- “Ngày xưa, ở trong vùng nông thôn xa xôi, có hai anh em
nhà kia trẻ tuổi đáng yêu. Họ cũng giống như bất cứ chàng trai trẻ nào mà bạn
có thể bắt gặp hôm nay. Tuy nhiên, tính khí của hai anh em rất ngỗ nghịch. Và mọi
việc trở nên nghiêm trọng khi hai anh em bắt đầu đi ăn trộm cừu của những nông
dân trong vùng một hành vi bị coi là trọng tội”. Câu này dạy THIẾU ĐỨC LY THAM
THÂN HÀNH.
Con người sinh ra vốn có bản chất
tham. Tại sao bản chất tham lại có sẵn trong mỗi người như vậy?
Bản chất tham có sẵn trong mỗi con
người là do duyên sắc dục làm chất xúc tác cho năm duyên: sắc, thọ, tưởng,
hành, thức hợp lại, cho nên con người sinh ra đều do gốc sắc dục, mà sắc dục là
lòng tham muốn trong thân ngũ uẩn tạo tác thành qui luật nhân quả. Qui luật
nhân quả tạo tác thành nghiệp báo. Khi nói đến qui luật nhân quả là nói đến
hành động thiện ác tác thành nghiệp báo. Nói đến hành động thiện ác tác thành
nghiệp báo là biết ngay do lòng tham muốn của mỗi người làm gốc thúc đẩy. Từ
lòng tham muốn của con người mà sinh ra vô vàn sự đau khổ, vì thế hôm nay chúng
ta tu học và rèn luyện nhân cách đức ly tham để chấm dứt tham dục. Chấm dứt
tham dục thì mọi sự khổ đau và tái sinh luân hồi chấm dứt.
Muốn biết tâm có tham hay không có
tham là chúng ta phải có thời gian sống một mình, có sống một mình mới thấy được
tâm mình. Nhờ có sống độc cư trầm lặng một mình, khi mỗi niệm khởi lên là không
qua khỏi mắt ý thức quan sát của chúng ta. Khi có niệm khởi lên là chúng ta thấy
biết niệm có tham hay không tham, niệm có tham là ác pháp nên chúng ta liền tác
ý ly tham: “Đây là niệm tham. Mày hãy đi
đi! Ở đây không có chỗ cho mày ở. Hãy đi khỏi nơi này!”. Cứ mỗi niệm tham
khởi lên là bị đuổi đi liền, đó là phương pháp tu tập để tạo thành đức ly tham.
Tu tập như vậy cho đến khi đức ly tham hiện tiền, luôn luôn có mặt trong chúng
ta thì tâm tham đã bị diệt trừ. Tâm tham đã bị diệt trừ thì đức ly tham hiện tiền,
và như vậy con đường giải thoát tu tập đến đây đã hoàn mãn.
--o0o--
2- “Một lần nọ, cả hai anh em bị bắt quả tang. Dân làng quyết
định trừng phạt bằng cách thích lên trán họ chữ “ST” (tên trộm cừu), như một dấu
ấn tội lỗi sẽ theo họ mãi mãi suốt đời”. Câu này dạy BẢN ÁN THIẾU ĐỨC LY
THAM THÂN HÀNH.
Khắc lên trán người lấy trộm hay
người cướp giật hai chữ “Ăn trộm”, hay “Ăn cướp” là một hình phạt quá nặng.
Theo chúng tôi thiển nghĩ: Không nên phạt như vậy, mà hãy thương yêu họ. Họ là
những người đáng thương hại, vì không được học đạo đức ly tham, nên mới sinh ra
những hành động lấy của không cho, trộm cắp, cướp giật, móc túi, v.v.. Nếu
không họ đã biết đó là những hành động xấu xa, tệ hại, hèn hạ, đê tiện, mất
nhân tính phẩm chất con người, đó là một hành động vô đạo đức làm khổ mình, khổ
người và còn làm mất trật tự an ninh xã hội trong xóm, làng, thị trấn, thị xã,
thành phố, thủ đô, v.v..
Nếu nhà nước bắt những người trộm,
cướp, móc túi, hiếp dâm, mãi dâm thì nên đem cải tạo cho họ dự vào các lớp học
đạo đức nhân bản nhân quả. Sau khi mãn những khóa học đạo đức này, người nào
thi tốt nghiệp đậu sẽ cho về, còn người nào thi rớt cho ở lại học tiếp, chừng
nào tốt nghiệp những lớp đạo đức nhân bản - nhân quả sống không làm khổ mình,
khổ người và không khổ tất cả chúng sinh này xong thì cho họ trở về hòa nhập
vào cuộc sống với mọi người. Chứ đừng bắt họ kêu án tù tội một tháng, hai
tháng, ba tháng đến một năm, hai năm, ba năm thì rất tội nghiệp cho họ, cho cha
mẹ họ, cho gia đình họ. Và nhất là họ mang tiếng suốt đời là người trộm cắp,
móc túi, tham lam, hiếp dâm, mãi dâm rất là tội nghiệp. Những hình phạt trộm cắp,
cướp giật, móc túi, tham lam, hiếp dâm, mãi dâm kêu án tù tội một tháng, một
năm hay nhiều hơn nữa, v.v.. thì không còn hợp với thời đại khoa học công kỹ
nghệ hiện đại hóa tiến bộ của loài người. Những hình phạt này đến giờ chưa thay
đổi e lỗi thời, không hợp với thời đại. Còn có nhiều nước bắt được trộm cắp, cướp
giật, móc túi, tham lam, hiếp dâm, mãi dâm mà hình phạt khắc chữ vào trán như:
Trộm thì khắc chữ “T”, còn cướp giật thì khắc chữ “C”, móc túi thì chặt ngón
tay, hiếp dâm thì thiến, mãi dâm thì khắc chữ lên trán “MD”. Những hình phạt
này rất tội nghiệp và rất thương tâm.
Đạo đức hiếu sinh không cho phép
chúng ta xử phạt như vậy, xin tất cả những nhà lãnh đạo mỗi đất nước trên thế
giới cần xét lại, nên lấy đạo đức hiếu sinh mà trị dân thì hay biết mấy. Pháp
luật và hình phạt phải theo đạo đức mà lập luật, lập pháp thì nhân bản con người
không bị chà đạp. Chính vì chương trình giáo dục đào tạo đạo đức nhân bản nhân
quả chưa có, chưa được giáo dục đạo đức toàn dân nên họ không biết, vì thế họ mới
làm nên tội lỗi. Xin những người lãnh đạo đất nước trên hành tinh này hãy suy
xét lại.
--o0o--
3- “Một trong hai anh em vì quá xấu hổ, nên đã bỏ làng đi
biệt xứ. Kể từ đó, chẳng còn ai biết được tin tức gì về anh ta”. Câu này dạy
ĐỨC LY THAM TÀM QUÝ Ý HÀNH, THÂN HÀNH.
Trên đời này không ai mà không lầm
lỗi, nhưng lầm lỗi mà biết xấu hổ, biết cố gắng khắc phục sửa sai, đừng làm lầm
lỗi nữa. Xấu hổ là một đức ly tham tuyệt vời. Có xấu hổ người ta mới lìa được
tâm tham của mình, có xấu hổ người ta mới trở thành con người tốt được.
Vì quá xấu hổ nên người anh mới bỏ
làng ra đi, và đi không trở về, còn mặt mũi nào nữa mà trở về làng. Phải không
quý vị?
Dù bất cứ ở đâu, người anh biết xấu
hổ sẽ không bao giờ làm việc trộm cắp ấy nữa, người xấu hổ là người biết phục
thiện. Chỉ có những người tham lam, trộm cắp, cướp giật của cải tài sản của người
khác; những người móc túi, hiếp dâm, mãi dâm không biết xấu hổ thì những người
đó là những người vô đạo đức, những người đáng chê trách, đáng để mọi người cần
phải có những biện pháp cưỡng chế giúp đỡ cho học đạo đức, để trở thành người tốt.
Muốn được vậy, thứ nhất là để bảo
vệ xã hội an ninh, trật tự; thứ hai là xây dựng con người tốt, làm việc tốt,
thì những người đầu trộm đuôi cướp đều bị cưỡng chế bắt buộc phải đi học đạo đức
nhân bản - nhân quả, do ngành Công An giữ gìn an ninh trật tự xã hội đảm trách
giảng huấn.
--o0o--
4- “Còn người thứ hai, vô cùng ân hận, đã ở lại làng và cố
gắng hết sức để bù đắp lại những lỗi lầm của mình. Lúc đầu, mọi người đều e dè
và chẳng muốn dính líu gì với anh ta. Tuy nhiên, anh vẫn quyết tâm hoán cải”. Câu này dạy
ĐỨC LY THAM HOÁN CẢI THÂN HÀNH.
Làm người ai cũng có những sự lầm
lỗi, nhưng biết ăn năn hối cải chừa bỏ, biết sửa đổi là một điều tốt, là một điều
đáng khen, như người em ở lại cố gắng khắc phục để trở thành người tốt. Muốn khắc
phục tính tham lam trộm cắp, cướp giật thì chỉ có đức bố thí. Người có đức bố
thí thì tính tham lam sẽ bị triệt tiêu. Đức bố thí có nhiều cách:
a- Đức bố thí lời
nói an ủi, khuyên lơn, khen tặng.
b- Đức bố thí hành
động, việc làm giúp đỡ.
c- Đức bố thí của cải tiền tài vật chất, cơm ăn áo mặc.
Những đức bố thí này giúp cho con
người ly tham, nhờ đó không còn tham lam trộm cắp, cướp giật tài sản của người
khác.
Biết được nhân quả làm thay đổi
con người, từ con người xấu ác thành con người lương thiện, nên đạo Phật ra đời.
Ra đời xác định và chỉ rõ bốn chân lí của loài người. Đó là KHỔ, TẬP, DIỆT, ĐẠO.
Làm con người không ai không ở trong bốn chân lí này. Khi đã hiểu rõ bốn chân
lí, thì mỗi người phải tự xây dựng cho mình một cuộc sống đạo đức, một cuộc sống
thiện, một cuộc sống không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh. Đó
là một sự làm thay đổi cả thế gian này, biến cuộc sống trên thế gian này thành
cõi Cực Lạc, Thiên Đàng.
ĐẠO ĐẾ là một chân lí, nó không phải
là một bài pháp BÁT CHÁNH ĐẠO dạy suông, lý luận thường như các bài kinh khác.
Những giảng sư Đại thừa Bắc tông và những giảng sư Nguyên thủy Nam tông lấy TỨ
DIỆU ĐẾ thuyết giảng như một bài pháp chung chung, như những bài kinh trong
kinh sách Nguyên Thủy.
ĐẠO ĐẾ là một chương trình giáo dục
đào tạo con người có GIỚI LUẬT (đạo đức) sống không làm khổ mình, khổ người và
khổ tất cả chúng sinh trên hành tinh theo phương hướng GIỚI, ĐỊNH, TUỆ. Phương
hướng Giới, Định, Tuệ gồm có: SƠ THIỆN, TRUNG THIỆN, HẬU THIỆN.
□ GIỚI nói về đức
hạnh của thân hành, ý hành và khẩu hành trong tám lớp học (Bát Chách Đạo) rèn
nhân cách. Những giới luật đức hạnh này là ở giai đoạn SƠ THIỆN.
□ ĐỊNH nói về sự
bình tĩnh, tĩnh giác. Bình tĩnh, tĩnh giác có bốn giai đoạn:
1- Tĩnh giác lúc còn sống.
2- Tĩnh giác lúc sắp chết.
3- Tĩnh giác lúc đã chết.
4- Tĩnh giác lúc xuất thai.
Trên đây là bốn phương pháp thực
hành TĨNH GIÁC trong tám lớp học (Bát Chánh Đạo) để đạt được định tĩnh trên Tứ
Niệm Xứ, ở giai đoạn TRUNG THIỆN.
□ TUỆ là trí tuệ
Tam Minh. Trí tuệ Tam Minh là một trí tuệ siêu việt phi không gian và thời
gian, một trí tuệ hiểu biết các pháp trong vũ trụ này, không một pháp nào che dấu
trí tuệ ấy được. Một trí tuệ mà ngoại đạo gọi là thần thông. Còn riêng đạo Phật
gọi nó là giới luật đức hạnh trong giai đoạn HẬU THIỆN.
Căn cứ vào qui luật nhân quả lấy
thiện chuyển ác nên đạo Phật mới có chương trình giáo dục đào tạo như vậy. Nhờ
có chương trình giáo dục đào tạo nên ĐẠO ĐẾ mới được gọi là chân lí. Do chỗ này
chúng ta chịu khó suy luận thêm một chút là thấy ngay kinh sách của Đại thừa và
kinh sách của các sư THERAVÃDA là kinh sách phát theo kiến tưởng giải mà kết tập
và biên soạn ra bằng tiếng Pali, chứ không phải chính thức là lời Phật dạy.
Nhờ căn cứ vào BÁT CHÁNH ĐẠO,
chúng ta mới biết toàn bộ những kinh sách này là những kinh sách phát triển của
những người tu chưa chứng quả A La Hán kết tập. Họ chỉ dựa vào kiến thức học hiểu
của nhiều kiến thức triết học và nhiều tư tưởng giáo điều của ngoại đạo rồi
biên soạn thành kinh sách Phật giáo. Nhưng theo kinh sách này tu tập chẳng ai đạt
được giải thoát, làm chủ sinh, già, bệnh, chết. Cho nên nó chỉ còn có cái tên
là PHẬT GIÁO, còn giáo lý và giới luật là của ngoại đạo. Kinh sách này nó đã
làm mất chương trình giáo dục đào tạo giới luật đức hạnh của Phật giáo.
Để chứng minh chúng tôi nói những
điều này đúng hay sai thì quý vị cứ xem xét: Từ khi kinh sách phát triển Bắc
tông và Nam tông ra đời cho đến nay, đã có người nào tu hành chứng quả A La Hán
chưa? Có ai tu chứng đạt chân lí chưa? Có ai tu tập làm chủ sinh, già, bệnh, chết
chưa? Có ai tu tập chứng Tam Minh chưa? Và có ai triển khai BÁT CHÁNH ĐẠO lập
thành chương trình giáo dục đào tạo những bậc chứng quả A La Hán chưa?
Qua những câu hỏi trên đây sẽ khẳng
định Phật giáo hiện tại dù là Nam tông hay Bắc tông đều là Phật giáo Bà La Môn
(Phật giáo phát triển).
--o0o--
5- “Hễ trong làng có ai đau yếu, anh đều tìm đến ân cần
chăm sóc và lo lắng. Bất cứ ai có việc gì nặng nhọc, anh đều tới giúp đỡ hết
mình, chẳng cần biết đó là ai, giàu hay nghèo. Cứ như thế anh luôn sống vì người
khác mà chẳng hề đòi ban thưởng hay trả công”. Câu này dạy ĐỨC HIẾU SINH THI ÂN
BẤT CẦU BÁO THÂN HÀNH.
Sau khi gây ra tội lấy của không
cho của người khác (trộm cừu), mọi người đều biết mặt, hai anh em quá xấu hổ và
hối hận, nên người anh bỏ làng đi nơi khác, còn người em ở lại nhưng quyết tâm
sửa đổi để trở thành người lương thiện, người tốt. Vì thế người em tìm mọi cách
để thể hiện những đức hạnh bố thí. Đức hạnh bố thí là đức hạnh dùng để đối trị
tâm tham lam trộm cắp, cướp giật. Đức hạnh này gồm có ba hành động bố thí:
1-
Bố thí của cải
tài sản: như đem cho
tiền bạc, cơm gạo, thực phẩm, bánh, trái cây, v.v.. giúp vốn làm ăn, cho ruộng
đất cày cấy.
2-
Bố thí khẩu
hành: là dùng lời
nói khuyên lơn, an ủi, cản ngăn không cho tranh cãi, v.v.. khiến cho mọi người
được an tâm không còn lo sợ, buồn phiền...
3-
Bố thí thân
hành: là ra công
làm cái này hoặc làm cái kia để giúp đỡ những sự nặng nhọc của người khác, như
trên đã nói. Người thực hiện đức ly tham là phải biết làm từ thiện, tức là biết
bố thí, nhưng bố thí phải đúng chánh pháp. Muốn bố thí đúng chánh pháp là chúng
ta phải làm như thế nào? Phải hiểu ra sao để bố thí mà không bị lường gạt, để hạt
giống bố thí đem lại lợi ích cho người, cho mình. Chứ không phải đem công sức của
cải tiền bạc ném bỏ vào chỗ ác pháp, tức là chỗ cá nhân và tập thể bất thiện
thì còn có nghĩa lý gì là bố thí. Bố thí như vậy cũng giống như đem hạt tốt gieo
trên đất khô cằn. Muốn bố thí đúng nghĩa chánh pháp của Phật thì điều đó chúng
ta cần phải học hiểu và nghe đức Phật dạy: “Muốn
bố thí và cúng dường đúng chánh pháp thì phải chọn người có đức hạnh, người tu
hành giới luật phải nghiêm túc, không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào, còn
ngoài ra thì không nên bố thí cúng dường, vì bố thí cúng dường giống như đem hạt
giống gieo trồng trên đất khô cằn cỗi thì chẳng có ích lợi gì”.
Lời Phật dạy như vậy, nhưng chúng
tôi có đọc kinh Đại thừa thấy dạy BỐ THÍ BA LA MẬT. Có một hoàng tử Tu Đại Noa
nước Diệp Ba phát tâm bố thí Ba La Mật, có nghĩa là cho cả thân mạng, vợ lẫn
con, trong khi vợ con than khóc cũng mặc kệ, chỉ biết có “KHÔNG”. Không của ba
la mật là phi đạo đức nhân bản - nhân quả. Khi hoàng tử trói hai đứa con của
mình giao cho người Bà La Môn và người Bà La Môn còn dùng roi đánh đập con mình
nhừ tử mà hoàng tử vẫn trơ trơ như đá, mặc kệ hai con kêu trời than khóc:
“Thần linh ôi! Hỡi thần linh ôi!
Hoan hỷ mách giùm mẹ chúng tôi.
Xét dạ con đi sầu chất chứa.
Đau lòng mẹ ở lụy quên thôi.
Chạnh tình nuôi dưỡng chưa thù
đáp.
Đoái nghĩa cưu mang chẳng đắp bồi.
Ở biết bao giờ cho rảnh nghiệp?
Cuộc đời thiết tưởng bạc hơn vôi”
Xin quý vị hãy đọc truyện cổ Phật
giáo bài “BỐ THÍ BẤT NGHỊCH Ý”, trang 19, tập I, sẽ thấy kinh sách Đại thừa dạy
phương pháp tu hành phi đạo đức mà các nhà Đại thừa gọi là pháp BỐ THÍ BA LA MẬT
BẤT TƯ NGHÌ.
Khi chúng tôi đọc bài kệ của hai đứa
bé, chúng không còn trông cậy vào sự che chở của cha và đang mong chờ bàn tay
âu yếm của mẹ đã làm chúng ta xúc động, còn hoàng tử tu hành thành Chánh Giác
nên trơ trơ như đá, như cây gỗ, không còn nhân tính con người.
Tu hành mà trở thành cây đá thì tu
hành làm gì? Nếu đức Phật tu đã trở thành cây đá thì làm gì hôm nay chúng ta có
Bốn Chân Lí, có Tứ Vô Lượng Tâm, có Tứ Chánh Cần, có pháp Như Lý Tác Ý, có đạo
đức Nhân Bản - Nhân Quả. Cho nên chúng ta cần phải xem xét lại kinh sách Đại thừa
và kinh sách Nam tông, tu hành chưa đến đâu mà viết kinh sách là giết người như
trường hợp hoàng tử Tu Đại Noa.
--o0o--
6- “Nhiều năm trôi qua, một bữa nọ, có một vị khách bộ hành
đi ngang qua ngôi làng. Trong lúc ngồi ở trong quán nước bên đường, ông trông
thấy một ông lão, trên trán có khắc một dấu khác lạ ngồi gần đó. Bất kỳ ai
trong làng đi ngang qua cũng đều dừng lại kính cẩn chào hỏi cụ; đám trẻ con
chơi xong cũng chạy đến sà vào lòng cụ. Tất cả mọi người đều kính trọng ông
lão”. Câu này dạy
ĐỨC KÍNH TRỌNG HIẾU SINH THÂN HÀNH.
Sau nhiều năm thực hiện đức bố
thí, người em đã chiếm trọn lòng tin yêu của mọi người. Bấy giờ họ không còn
xem ông là người ăn trộm cừu nữa, mà xem ông như một ông Thánh. Bố thí là một
hành động của đức ly tham, nhưng bố thí cũng chính do từ đức hiếu sinh mới thật
sự đức bố thí đúng chánh pháp. Bởi vậy có lòng thương yêu chân thật thì mới có
sự bố thí chân chính, chứ không phải bố thí theo phong trào.
Từ một người ăn trộm trở thành một
Thánh nhân chỉ có khác nhau ở hành động và tâm tính mà thôi, chứ Thánh nhân và
con người chỉ là một người. Khi tham lam đi bắt trộm cừu là người ăn trộm,
nhưng từ bỏ lòng tham lam và lìa xa những hành động đi ăn trộm, ăn cắp, đổi lại
hành động bố thí thương yêu mọi người là Thánh nhân.
Theo Phật giáo, chúng ta không cần
làm Thánh, làm thiên Thần, mà chỉ cần làm con người đúng nghĩa của con người,
là sống không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh.
Bởi vậy một người sống không làm
khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh, ai muốn gọi họ Thánh hay phàm,
hay gì gì cũng được, nhưng chính bản thân của họ, họ phải biết hơn ai hết. Họ
biết họ bây giờ tâm tham, sân, si, mạn, nghi không còn, tâm họ bất động trước
các ác pháp và các cảm thọ, tâm họ lúc nào cũng thanh thản, an lạc và vô sự, ngồi
đâu cũng tỉnh táo, không bao giờ bị hôn trầm, thùy miên, vô ký, tâm luôn luôn tĩnh
giác quán sát trên Tứ Niệm Xứ, không bao giờ phóng dật.
Một người tu theo Phật giáo không
thích những điều kỳ lạ, không đắm mê những thần thông phép thuật, không thích
cõi này, cõi kia, nhưng cũng không mong cầu tu hành thành Thần, Thánh, Tiên, Phật,
hoặc cầu những bậc này gia hộ cứu rỗi cho mình, mà chỉ chính mình biết vươn
lên, biết khắc phục và chế ngự thân tâm mình không làm những điều xấu ác, và
còn biết làm những điều lành để không làm khổ mình, khổ người và khổ muôn loài
chúng sinh. Đó là ước nguyện của người tu theo Phật giáo, vì thế họ rất vui
lòng sống với đức hiếu sinh, sống với đức ly tham. Họ rất sung sướng khi họ đã
sống với những đức hạnh này để họ được giải thoát mà người khác cũng được an
vui và hạnh phúc.
--o0o--
7- “Thấy ngạc nhiên, người khách lại hỏi thăm vị chủ quán:
-
Hai ký tự
trên trán ông cụ có nghĩa là gì thế?
-
Tôi cũng
không rõ nữa. Chuyện xảy ra cáchđây đã lâu lắm rồi - người chủ quán đáp. Sau
đó, ông ngừng lại suy nghĩ một chút rồi nói - nhưng theo tôi, chắc nó có nghĩa
là “Thánh nhân”.
(ST có hai nghĩa theo tiếng Anh: “Sheep Thief” là tên
trộm cừu và “Saint” là Thánh nhân)”. Câu này dạy ĐỨC CHUYỂN ĐỔI NHÂN QUẢ
LY THAM.
Từ một người ăn trộm cừu để chuyển
đổi thành một Thánh nhân đâu phải khó khăn. Phải không quý vị?
Muốn được vậy chỉ có sống trong giới
luật đức hạnh của Phật. Người ăn trộm cừu chỉ biết ăn năn hối cải bằng cách sống
với đức bố thí mà người ta còn gọi là Thánh nhân, huống là chúng ta sống đúng 5
giới luật đức hạnh của Phật trong NGŨ GIỚI thì họ sẽ xem chúng ta là những bậc
vĩ đại như thế nào?
Giới luật đức hạnh của Phật giáo
giúp cho con người sống không làm khổ cho nhau nữa; giúp cho con người sống làm
chủ những sự khổ đau của chính thân tâm mình và chấm dứt sự tái sinh luân hồi
trong đau khổ từ kiếp này sang kiếp khác. Đạo Phật rất thực tế, rất đời thường,
nhưng rất đạo đức cao thượng. Vì thế đạo Phật rất tuyệt vời, sống trong thế
gian mà vượt ra ngoài thế gian, xứng đáng làm người là con người.
BÀI HỌC THỨ NĂM:
RÈN NHÂN CÁCH
ĐẠO ĐỨC LY THAM Ý HÀNH, THÂN HÀNH, KHẨU HÀNH:
Đặc
san báo CATP số ra ngày 11/12/2004 có đưa tin về vụ án mạng xảy ra trên địa bàn
huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre. Với hành vi tàn độc cùng sự chuẩn bị khá chu đáo
của hung thủ đã cho thấy tính chất đặc biệt nghiêm trọng của vụ án.
Khoảng 22 giờ ngày 08/12/2004, quốc lộ 57 thuộc địa
bàn xã Tân Phong lúc này đã chìm hẳn trong màn đêm tĩnh mịch. Hai bóng đen đang
ngồi thì thầm to nhỏ thì bất chợt từ xa một ánh đèn xe máy quét đến khiến cả
hai mừng thầm trong bụng. Khi xe đến gần, một trong hai thanh niên vẫy tay xin
được quá giang. Nhìn cả hai đáng tuổi con cháu mình, đang đêm lại lỡ đường, người
đàn ông dừng xe cho hai kẻ lạ mặt đi nhờ mà không một chút đắn đo. Được một đoạn
khoảng chừng 500m, chúng nhờ chở vào đoạn đường rẽ liên ấp thuộc ấp Qui Đức, xã
Quới Điền. Đến một nơi vắng vẻ, hai bên là một ruộng lúa cách quốc lộ 57 chừng
80m (gần chân cầu Dương Văn Ngươn), lúc này cả hai kẻ quá giang xe lộ nguyên
hình là hai tên cướp hung ác. Vừa bước xuống xe, một tên cầm dao Thái Lan loại
lưỡi xếp, tên kia dùng gậy đâm và đánh cho tới khi nạn nhân bất động, cả hai
khiêng xác nạn nhân quăng xuống ruộng lúa. Lục được trong túi quần, áo nạn nhân
103 ngàn đồng, chúng cướp chiếc xe máy chạy về hướng phà Hàm Luông.
Khi đến gần bến phà, sợ phát hiện những vết máu và bùn
dính trên người (do vật lộn trong lúc bị nạn nhân chống cự), cả hai vào nhà một
người dân gần đấy xin được... tắm nhờ. Nhận thấy điều bất thường ở 2 vị khách lạ
này, chủ nhà với tinh thần cảnh giác cao, một mặt giả vờ cho chúng tắm, một mặt
sai người nhà đi báo Công An và lực lượng bảo vệ phà. Vừa tắm xong, cả hai đã
thất kinh hồn vía khi thấy lực lượng Công An xã đã đợi chúng tự bao giờ.
Ngay khi đưa cả hai đối tượng cùng chiếc xe máy về trụ
sở, bọn chúng khai nhận tên là Trần Quốc Quy, SN 1987 và Nguyễn Văn Hoà, SN
1988, cùng ngụ ấp Phủ, xã Tân Phong, huyện Thạnh Phú. Mờ sáng hôm sau, nguồn
tin về một vụ cướp của giết người lan nhanh trong huyện gây sự tò mò trong người
dân. Thông tin về lai lịch nạn nhân cũng nhanh chóng được xác định. Ông tên Mai
Văn Hóa, SN 1965 (nguyên là một dược sĩ đã nghỉ việc) ngụ ấp 7 thị trấn Thạnh
Phú. Buổi chiều hôm ấy, ông Hoá trên đường đi thăm người thân về nhà thì bị bọn
cướp giết.
Tại cơ quan Công An, Quy và Hoà khai nhận, để chuẩn bị
cho phi vụ làm ăn này, trước đó cả hai đã lên chợ thị xã mua một biển số xe giả
nhằm thay vào biển số thật. Nếu thành công, chúng cùng nhau lên thành phố bán
xe lấy tiền tiêu xài thỏa thích. Đêm ấy, cùng với những vật dụng cần thiết như:
dao, gậy, khẩu trang mang sẵn trong người, cả hai cùng ra đón xe khoảng chừng
30 phút thì ông Hoá chạy tới.
Qua tìm hiểu, chúng tôi được biết Hòa vừa nghỉ học được
vài ngày, còn Quy đi làm thuê ở Đồng Tháp mới về. Mặc dù chưa có tiền án, tiền
sự, nhưng theo cán bộ xã Quới Điền và Tân Phong thì gần đây hiện tượng thanh
thiếu niên kết bè phái gây gổ đánh nhau đang xuất hiện trên địa bàn tỉnh. Quy
và Hòa tập tành bước vào thế giới phạm pháp ấy. Nhiều lần những đối tượng này
đã ngang nhiên phá phách nhà người khác giữa ban ngày, nhưng vì sợ chúng trả
thù nên ít ai dám tố cáo. Hiện vụ việc đang được Công An tỉnh Bến Tre tiếp tục
điều tra xử lý. Tuy nhiên cho dù vì lý do gì đi nữa, hành vi mất hết tính người
của Quy và Hòa sẽ phải bị pháp luật trừng trị thích đáng.
(Nguyễn Minh - Phan Long
Báo Công An thứ năm ngày
01/3/2007)
--o0o--
1-
“Khoảng
22 giờ ngày 08/12/2004, quốc lộ 57 thuộc địa bàn xã Tân Phong lúc này đã chìm hẳn
trong màn đêm tĩnh mịch. Hai bóng đen đang ngồi thì thầm to nhỏ thì bất chợt từ
xa một ánh đèn xe máy quét đến khiến cả hai mừng thầm trong bụng. Khi xe đến gần,
một trong hai thanh niên vẫy tay xin được quá giang. Nhìn cả hai đáng tuổi con
cháu mình, đang đêm lại lỡ đường, người đàn ông dừng xe cho hai kẻ lạ mặt đi nhờ
mà không một chút đắn đo”. Đoạn
này dạy đạo đức gì?
2-
“Được một đoạn khoảng chừng
500m, chúng nhờ chở vào đoạn đường rẽ liên ấp thuộc ấp Qui Đức, xã Quới Điền. Đến
một nơi vắng vẻ, hai bên là một ruộng lúa cách quốc lộ 57 chừng 80m (gần chân cầu
Dương Văn Ngươn), lúc này cả hai kẻ quá giang xe lộ nguyên hình là hai tên cướp
hung ác. Vừa bước xuống xe, một tên cầm dao Thái Lan loại lưỡi xếp, tên kia
dùng gậy đâm và đánh cho tới khi nạn nhân bất động, cả hai khiêng xác nạn nhân
quăng xuống ruộng lúa. Lục được trong túi quần, áo nạn nhân 103 ngàn đồng,
chúng cướp chiếc xe máy chạy về hướng phà Hàm Luông”. Đoạn này dạy đạo đức gì?
3-
“Khi đến gần bến phà, sợ phát hiện
những vết máu và bùn dính trên người (do vật lộn trong lúc bị nạn nhân chống cự),
cả hai vào nhà một người dân gần đấy xin được... tắm nhờ. Nhận thấy điều bất
thường ở 2 vị khách lạ này, chủ nhà với tinh thần cảnh giác cao, một mặt giả vờ
cho chúng tắm, một mặt sai người nhà đi báo Công An và lực lượng bảo vệ phà. Vừa
tắm xong, cả hai đã thất kinh hồn vía khi thấy lực lượng Công An xã đã đợi
chúng tự bao giờ”. Đoạn
này dạy đạo đức gì?
4-
“Ngay khi đưa cả hai đối tượng
cùng chiếc xe máy về trụ sở, bọn chúng khai nhận tên là Trần Quốc Quy, SN 1987
và Nguyễn Văn Hoà, SN 1988, cùng ngụ ấp Phủ, xã Tân Phong, huyện Thạnh Phú. Mờ
sáng hôm sau, nguồn tin về một vụ cướp của giết người lan nhanh trong huyện gây
sự tò mò trong người dân”. Đoạn
này dạy đạo đức gì?
5-
“Thông tin về lai lịch nạn nhân
cũng nhanh chóng được xác định. Ông tên Mai Văn Hóa, SN 1965 (nguyên là một dược
sĩ đã nghỉ việc) ngụ ấp 7 thị trấn Thạnh Phú. Buổi chiều hôm ấy, ông Hoá trên
đường đi thăm người thân về nhà thì bị bọn cướp giết”. Đoạn này dạy đạo đức gì?
--o0o--
1- “Khoảng 22 giờ ngày 08/12/2004, quốc lộ 57 thuộc địa bàn
xã Tân Phong lúc này đã chìm hẳn trong màn đêm tĩnh mịch. Hai bóng đen đang ngồi
thì thầm to nhỏ thì bất chợt từ xa một ánh đèn xe máy quét đến khiến cả hai mừng
thầm trong bụng. Khi xe đến gần, một trong hai thanh niên vẫy tay xin được quá
giang. Nhìn cả hai đáng tuổi con cháu mình, đang đêm lại lỡ đường, người đàn
ông dừng xe cho hai kẻ lạ mặt đi nhờ mà không một chút đắn đo”. Đoạn này dạy
THIẾU ĐỨC CẢNH GIÁC HIẾU SINH Ý HÀNH.
Như chúng ta đều biết, từ khi đức
Phật ra đời cho đến ngày nay đã hơn 2.500 năm, Ngài đã đem lại cho loài người một
nền đạo đức nhân bản nhân quả sống không làm khổ mình, không làm khổ người và
không làm khổ tất cả chúng sinh. Thế mà một thời gian quá dài hơn 2.500 năm,
nhưng con người từ Đông sang Tây chẳng có ai biết đến nền đạo đức này là gì nữa.
Người ta chưa bao giờ nghe nói đến cái tên, thì làm sao biết được những hành động
đạo đức đó. Thậm chí ngay đến cả chương trình giáo dục đào tạo tám lớp học đạo
đức nhân bản - nhân quả đó, con người cũng không biết. Do không biết đạo đức
này nên con người chạy theo lòng dục vọng tham lam. Tất cả các nước trên hành
tinh này không có nước nào không có trộm cắp, cướp giật của cải, giết người. Vì
lòng tham lam cho nên thế giới lúc nào cũng có chiến tranh, không nước này thì
nước khác. Ngày nào trên thế giới không nước này thì nước kia cũng xảy ra nạn
gian tham trộm cắp, cướp giật, cờ bạc, cá cược, hiếp dâm, mãi dâm, v.v.. Vì thế,
ban đêm nhà nhà đều phải đóng cửa, luôn luôn lo sợ những kẻ gian tham lẻn vào
trộm cắp. Còn ra đường thì lo sợ những kẻ móc túi, giựt túi xách. Cho nên ở
trong nhà, cũng như khi ra đường ai cũng đều cảnh giác và nơm nớp lo sợ.
Bởi vậy con người không học đạo đức
ly tham, cho nên tâm còn dẫy đầy tham, sân, si, mạn, nghi, nên thấy cái chi cũng
tham muốn, thấy cái chi cũng muốn lấy. Từ lòng tham muốn sinh ra muôn ngàn mưu
mô thủ đoạn để cướp đoạt công sức, tiền bạc, tài sản, ruộng đất, v.v.. của người
khác.
Trong xã hội loài người, người
lãnh đạo đất nước phải sáng suốt bắt buộc toàn dân, từ già chí trẻ, người nào cũng
phải đi học ĐỨC LY THAM, có học đức ly tham thì xã hội mới không có người gian
tham trộm cắp, cướp giật, v.v..
ĐỨC LY THAM rất cần cho mọi công
dân trong một nước. Muốn cho xã hội có trật tự an ninh thì mọi người phải học đức
ly tham. Nguyên nhân mất trật tự an ninh trong thôn xóm, làng, thị xã, thị trấn,
thành phố, thủ đô, chính do lòng tham muốn của con người. Lòng tham muốn mới
sinh ra trộm cắp, cướp của giết người; chính lòng tham muốn của con người mà
gia đình tan nát, con cái đi kiện thưa cha mẹ, anh em chia lìa, đâm chém giết
nhau vì ruộng đất, của cải tài sản; chính lòng tham muốn của con người mà thế
giới chiến tranh không bao giờ chấm dứt. Vì thế, chúng ta cần mở một chiến dịch
diệt trừ lòng tham muốn, có như vậy thì tệ nạn trộm cắp, cướp giật mới chấm dứt.
Nhờ đó nhà nhà ngủ không đóng cửa, ngoài đường của rơi không ai lượm. Một đất
nước muốn nhân dân được bình an, yên ổn, xã hội có trật tự an ninh thì nên tổ
chức những lớp học đạo đức ly tham để xóa tệ nạn trộm cắp, cướp của giết người.
Trong một xã hội đạo đức đang xuống
cấp thì mọi người cần phải cảnh giác. Cảnh giác là một đức hạnh, là một thiện
pháp, nó sẽ chuyển được nghiệp báo nhân quả. Nếu bác Mai Văn Hóa đề cao cảnh
giác, ban đêm thấy thanh niên nam nữ tuổi trẻ hay người lớn tuổi xin quá giang
thì đừng cho.
-
Thứ nhất, chạy xe ban đêm thấy có người đón xe xin quá
giang thì tống ga chạy nhanh để tránh tai họa. Đó là cách cứu mình duy nhất
trên đường đi lúc ban đêm. Nhiều người thiếu cảnh giác mang lại cái chết đau
lòng cho nhiều người, nhất là gia đình.
-
Thứ hai, nếu có cho quá giang thì chở thẳng vào trụ sở
Công An nhờ họ giúp đỡ, còn mình thì trở về nhà.
Xưa có một Bà La Môn tốt bụng, ông
đang cưỡi ngựa bỗng thấy có một người ôm chân rên la, kêu khóc không đi được.
Ông Bà La Môn xuống ngựa và nhường cho người bị tai nạn, rồi ông dắt ngựa đi,
nhưng người bị nạn kêu đau chân và xin: “Ông
hãy đưa dây cương ngựa cho tôi thì ngựa đi mới êm được”. Nhưng khi nắm được
dây cương thì người bị nạn kia ra roi ngựa chạy như bay.
Người Bà La Môn biết mình bị lừa
liền gọi người kia dừng và nói đôi lời: “Này
ông bạn! Hành động của ông bạn quý quá, nếu sau này có ai bị nạn chắc không còn
ai dám giúp đỡ, vậy ông bạn cứ đi!”.
Xã hội đầy trộm cướp mà ban đêm
cho quá giang là điều thiếu cảnh giác. Một anh xe ôm chở hai người khách nhờ cảnh
giác, thấy khả nghi, nên khi chạy đến chỗ đông người liền dừng lại, chạy bỏ xe
và tri hô, nhờ đó thoát nạn. Quần chúng bắt được hai tên cướp có súng.
Nếu bác Hóa biết cảnh giác thì đâu
có xảy ra cái chết rất oan uổng như thế này. Bác Hóa là một người tốt, xem hai
chú thanh niên kia như con cháu, nên sẵn sàng giúp đỡ, thế mà hai cháu thanh
niên này có học đạo đức hiếu sinh và đức ly tham bao giờ đâu, nên lòng tham
ngút ngàn chỉ còn biết có của cải, tài sản, nên nỡ nhẫn tâm giết chết bác Hóa.
Vậy tội này về ai? Nếu hai cháu thanh niên này có học đạo đức hiếu sinh và đạo
đức ly tham thì đâu có xảy ra một cảnh giết người đau lòng, nát dạ, trước cái
chết thảm thương của bác Hóa như thế này. Phải không quý vị?
Tình trạng đất nước chúng ta thường
xảy ra những tệ nạn xã hội dẫy đầy, ngày một tăng thêm làm cho những người lãnh
đạo đất nước đau đầu và người dân sống trong lo âu và sợ hãi.
--o0o--
2- “Được một đoạn khoảng chừng 500m, chúng nhờ chở vào đoạn
đường rẽ liên ấp thuộc ấp Qui Đức, xã Quới Điền. Đến một nơi vắng vẻ, hai bên
là một ruộng lúa cách quốc lộ 57 chừng 80m (gần chân cầu Dương Văn Ngươn), lúc
này cả hai kẻ quá giang xe lộ nguyên hình là hai tên cướp hung ác. Vừa bước xuống
xe, một tên cầm dao Thái Lan loại lưỡi xếp, tên kia dùng gậy đâm và đánh cho tới
khi nạn nhân bất động, cả hai khiêng xác nạn nhân quăng xuống ruộng lúa. Lục được
trong túi quần, áo nạn nhân 103 ngàn đồng, chúng cướp chiếc xe máy chạy về hướng
phà Hàm Luông”. Đoạn này nói hành động bất lương THIẾU ĐẠO ĐỨC LY THAM THÂN HÀNH.
Đọc đoạn này chúng ta mới thấy con
người quá hung dữ, tàn ác, nỡ nhẫn tâm giết người một cách đau thương. Cho nên
con người hiện giờ độc ác hơn loài thú hung dữ.
Nền đạo đức đang xuống cấp nên
chúng ta hãy đề cao cảnh giác, không nên tin bất cứ một người nào khác. Đức đề
cao cảnh giác giúp chúng ta vượt thoát mọi sự khổ đau, thoát ra khỏi những tai
nạn hiểm nghèo.
Hiện giờ người nào cũng đầy ắp những
tâm tham, sân, si, mạn, nghi, vì thế đức cảnh giác rất cần thiết cho chúng ta
trong lúc này. Khi gây gổ với ai, họ có thể giết chúng ta dễ như chơi. Vậy khi
thấy ai gây gổ thì nên nhẫn nhịn và tránh xa. Càng nhẫn nhịn tránh xa càng tốt.
Phải tập im lặng như Thánh. Ngày xưa ngoại đạo chửi mắng Phật và chúng Thánh tăng
thậm tệ trước mặt Phật, nhưng Ngài im lặng không hề có tiếng qua tiếng lại. Cho
đến khi các đệ tử của Người hỏi lý do như thế nào mà nhẫn nhịn như vậy? Ngài trả
lời:
Khen không đúng giới luật là khen
sai, chê không đúng giới luật là chê sai. Khen chê không đúng có gì mà phải cãi
qua cãi lại với những người hung ác, không biết giới luật, không biết đạo đức.
Cảnh giác để không làm khổ mình,
khổ người; cảnh giác để chuyển nhân quả, làm cho những điều ác xa lìa, và làm
cho những điều thiện được tăng trưởng.
Học Phật pháp chúng ta biết rất
nhiều đức hạnh, vì mỗi hành động của chúng ta là đức hạnh hay không đức hạnh rất
dễ nhận xét, khi một hành động mang đến sự khổ đau cho mình, cho người là hành
động thiếu đức hạnh, còn ngược lại là hành động có đạo đức. Cho nên đạo đức tới
đâu thì sự bình an yên vui đến đó.
Trong cuộc đời của chúng ta có ba
nơi xuất phát hành động đạo đức hay không đạo đức chúng ta đều biết rất rõ, đó
là thân, miệng, ý. Khi thân, miệng, ý nói, làm hay suy nghĩ một điều gì mà điều
đó có sự đau khổ cho mình, cho người hay cho cả hai là chúng ta biết đó là hành
động ác, là hành động thiếu đạo đức, còn ngược lại là chúng ta sống có đạo đức.
Khi xin quá giang, đó là khẩu hành
lừa đảo gạt người, rồi đến chỗ vắng giết người để cướp của cải, xe cộ, thật là
tàn ác. Những kẻ gian ác mất tính người thật đáng chê trách, họ chỉ còn là bản
chất của loài thú dữ.
Con người mà dám giết con người
thì phải có sự huân tập sát hại những loài động vật không biết bao nhiêu con mà
kể. Đôi tay họ đã vấy máu ghê gớm và đã hóa thành quen. Một nghiệp lực giết hại.
Cho nên khi giết người cướp của họ không còn là một con người; họ không còn có
một tình người biết thương xót ai cả, họ chỉ còn biết sợ Công An, người thi
hành pháp luật của Nhà nước mà thôi.
Giết một người như giết một con vật
thì đạo đức hiếu sinh đối với những người này chẳng còn có một chút xíu nào cả.
Chính họ còn không biết thương họ, họ đã làm khổ họ, họ đã giết chết nhân tính,
lòng thương yêu của họ.
--o0o--
3- “Khi đến gần bến phà, sợ phát hiện những vết máu và bùn
dính trên người (do vật lộn trong lúc bị nạn nhân chống cự), cả hai vào nhà một
người dân gần đấy xin được... tắm nhờ. Nhận thấy điều bất thường ở 2 vị khách lạ
này, chủ nhà với tinh thần cảnh giác cao, một mặt giả vờ cho chúng tắm, một mặt
sai người nhà đi báo Công An và lực lượng bảo vệ phà. Vừa tắm xong, cả hai đã
thất kinh hồn vía khi thấy lực lượng Công An xã đã đợi chúng tự bao giờ”. Đoạn này dạy
ĐỨC NHÂN QUẢ NGHIỆP BÁO.
Nhân nào quả nấy, vừa tạo nhân giết
người cướp của xong, thì ngay đó là quả Công An bao vây nhà còng tay đưa về trụ
sở. Nhân quả hiện tiền không phải đợi nhiều kiếp, chỉ trong một kiếp này. Giết
người thì pháp luật sẽ kêu án tù tội chung thân hoặc tử hình.
Hai cháu thanh niên này được xem
như cuộc đời tới đây là hết. Nếu tuổi trẻ như hai cháu này sinh ra được gặp đạo
đức nhân bản - nhân quả, được học lớp đạo đức hiếu sinh, đạo đức ly tham thì
hai cháu thanh niên này đâu có rơi vào những tội ác tày trời (giết người cướp của),
tội lỗi quá lớn lao. Dù cho hiện giờ hai cháu có ăn năn sám hối thì không còn
cách nào cứu chữa, chỉ còn chờ tòa án xét xử. Chắc chắn hai cháu phải có người
tử hình và phải có người tù tội chung thân, nhưng như vậy chưa xong, luật nhân
quả sẽ xử phạt cái chết rùng rợn thảm thương cũng như hiện giờ các cháu đã nỡ
tâm ra tay giết hại bác Hóa vậy.
Trong xã hội chúng ta không chỉ có
hai cháu này mà còn nhiều cháu nữa. Báo chí hằng ngày thường đăng tin tức xảy
ra nhiều vụ án mạng do trộm cắp, cướp giật, giết người. Bước chân vào thăm những
trại giam khắp nơi trong nước thì số tù nhân trộm cắp, cướp của, giết người,
hút chích xì ke, ma túy, mãi dâm, hiếp dâm, cờ gian bạc lận đông vô số kể.
Phần đông nam nữ tội phạm đủ các
loại tuổi tác, nhất là thanh niên và thanh thiếu niên nam nữ tuổi còn học trò.
Họ không được giáo dục đào tạo theo các lớp đạo đức hiếu sinh, đạo đức ly tham,
đạo đức chung thủy, đạo đức thành thật và đạo đức minh mẫn, nên thường phạm vào
những tội cướp trộm và kế đến là tội giết người. Đứng trước tình trạng thanh
niên và thanh thiếu niên nam nữ phạm vào những tội trộm cắp, cướp của giết người
thì thật là đáng thương, nhưng cũng đáng trách gia đình và xã hội chưa làm hết
bổn phận trách nhiệm giáo dục con em của mình về đạo đức.
Ngay từ bây giờ chưa phải muộn,
chúng ta là những bậc làm cha mẹ, là những bậc lãnh đạo đất nước thì phải xem
xét lại vấn đề giáo dục đạo đức nhân bản - nhân quả, trong đó có nhiều đức hạnh
như đã nói ở trên: đức hiếu sinh, đức ly tham, đức chung thủy, đức thành thật
và đức minh mẫn. Tất cả thanh niên và thanh thiếu niên nam nữ cần phải được
giáo dục học tập những đạo đức này. Nếu người nào chưa học, bắt buộc phải học.
Nhờ có sự tổ chức và bắt buộc học tập đạo đức như vậy thì ngành Công An giữ gìn
trật tự an ninh trong nước sẽ đỡ vất vả hơn nhiều.
Hiện giờ các cháu thanh niên hay
thanh thiếu niên nam nữ, hoặc bất cứ một người nào vi phạm tội trộm cắp, cướp của,
giết người, hiếp dâm, mãi dâm, xì ke, ma túy, hút xách, cờ bạc, v.v.. thì cưỡng
bức cải tạo đi học các lớp đạo đức này. Nếu người nào học thi đậu được thả cho
về, còn rớt thì ở lại học nữa, đến khi thi đậu mới trả tự do cho hòa nhập với cộng
đồng. Có xây dựng và đào tạo đạo đức như vậy thì xã hội này mới bình an, mới
không còn những tệ nạn xã hội, mới không còn cảnh giết người, những cái chết rất
oan uổng.
--o0o--
4- “Ngay khi đưa cả hai đối tượng cùng chiếc xe máy về trụ
sở, bọn chúng khai nhận tên là Trần Quốc Quy, SN 1987 và Nguyễn Văn Hoà, SN
1988, cùng ngụ ấp Phủ, xã Tân Phong, huyện Thạnh Phú. Mờ sáng hôm sau, nguồn
tin về một vụ cướp của giết người lan nhanh trong huyện gây sự tò mò trong người
dân”. Câu này dạy
ĐẠO ĐỨC NHÂN QUẢ NGHIỆP BÁO.
Làm một điều ác có thể che dấu mọi
người, nhưng không thể nào che dấu được luật nhân quả. Nếu người làm ác còn có
một chút thiện lành trong lương tâm, còn có những hành động biết thương người,
biết giúp đỡ người hoặc cứu giúp yêu thương các loài động vật khác, cho nên làm
một điều ác mà còn lẩn tránh pháp luật được 5, 10 ngày hay 1, 2 tháng hoặc 5
năm, 10 năm, 20 năm đều do có làm những điều lành, vì thế mới tránh né pháp luật
được, chờ khi hết phước thì nghiệp báo phải trả, không còn tránh né đâu khỏi.
Làm ác cũng giống như một người sinh ra không thể nào tránh mưa nắng được.
Luật nhân quả rất công bằng và
công lý, xử phạt rất nghiêm minh, dù một hành ác nhỏ, một lời nói có hàm ý ác
thì vẫn phải trả quả, không trốn đâu khỏi, trả quả ngay liền trong hiện tại. Do
không hiểu luật nhân quả nên người đời thường gọi nhân quả nghiệp báo là luật
trời.
Luật pháp nhân quả như vậy, cho
nên chúng ta làm hay nói phải suy nghĩ kỹ lưỡng rồi mới làm hoặc nói, chứ đừng
muốn nói sao là nói, muốn làm sao là làm, là không được. Luật nhân quả không
tha cho một ai cả.
Nhớ làm việc thiện, nói điều thiện
chứ đừng nói và làm điều ác. Đó là lời dạy của đức Phật: “Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng
hành”.
--o0o--
5- “Thông tin về lai lịch nạn nhân cũng nhanh chóng được
xác định. Ông tên Mai Văn Hóa, SN 1965 (nguyên là một dược sĩ đã nghỉ việc) ngụ
ấp 7 thị trấn Thạnh Phú. Buổi chiều hôm ấy, ông Hoá trên đường đi thăm người
thân về nhà thì bị bọn cướp giết”. Đoạn này dạy ĐẠO ĐỨC NHÂN QUẢ NGHIỆP BÁO.
Nhân quả nghiệp báo rất đáng sợ, sắp
xếp giờ khắc không sai một li hào nào. Vào giờ đó ông Hóa đi thăm người thân về,
đúng lúc là Quy và Hòa ngồi chờ để cướp xe và giết người, nếu nhân quả ông Hóa
không nợ cái chết như vậy thì ông sẽ về sớm hơn hoặc trễ hơn. Cho nên nhân quả
cộng nghiệp ông Hóa không thể tránh khỏi.
Bởi vậy đức Phật dạy chúng ta: “Ngăn
ác diệt ác pháp, sinh thiện tăng trưởng thiện pháp”, nhờ thế mà nhân quả nghiệp báo không có, nên cuộc sống của chúng
ta đều gặp nhiều may mắn. Người sống thiện không bao giờ lo lắng, sợ hãi; người
sống thiện tâm hồn luôn thanh thản, an lạc và vô sự.
Trong lớp học đạo đức hiếu sinh, đạo
đức ly tham, sao các tu sinh lại còn tranh chấp hơn thua từng lời nói để làm
gì? Để tự tạo cho mình khổ, người khác cùng khổ theo ư? Sao lại vô minh như vậy?
Trên đời các pháp đều là vô thường, có pháp nào là ta, là của ta, là bản ngã của
ta đâu, thế sao tu sinh lại hơn thua nhau từng lời nói để rồi kẻ ở người đi. Thật
là buồn phải không các tu sinh! Cuộc đời này còn có gì đâu, chỉ toàn là sự khổ
đau. Sao chúng ta không biết thương nhau?
Học đạo đức hiếu sinh thì phải
thương nhau, phải tha thứ cho nhau, cớ sao lại tranh chấp hơn thua từng lời nói
rồi mạt sát lẫn nhau, nói xấu nhau như vậy có lợi ích gì? Hay làm đau khổ mình,
đau khổ người và đau khổ cả hai.
Các tu sinh học đạo đức ly tham
sao lại không ly để rồi phải bỏ lớp học ra đi. Ra đi quý tu sinh sẽ còn biết tu
tập cái gì đây? Quý tu sinh cứ nghĩ rằng còn có những pháp cao siêu hơn, tu để
thành Phật, để thành Tiên, tu để có thần thông biến hóa tàng hình.
Đó là các tu sinh sống trong ảo tưởng,
trong mơ. Thật sự không còn pháp nào hơn là giới luật đức hạnh để giúp cho loài
người thoát khổ. Muốn thoát khổ đau chỉ có pháp duy nhất này mới chuyển đổi
nhân quả thiện ác, mới đem lại sự sống bình an cho loài người mà thôi.
Nếu không có giới luật đức hạnh
nhân bản nhân quả, không có pháp như lý tác ý thì cuộc đời sẽ trôi lăn theo
dòng nhân quả nghiệp báo thì biết chừng nào con người ra khỏi luân hồi sinh tử;
thì biết chừng nào chấm dứt và làm chủ nhân quả sinh, già, bệnh, chết.
Các tu sinh bỏ Tu Viện ra đi là đi
vào bước đường cùng của cuộc đời. Rồi đây sẽ trôi lăn trong lục đạo, khổ đau
không cùng tận. Tu thì có biết bao nhiêu người tu, từ Đông sang Tây, từ Nam chí
Bắc, nhưng có ai chuyển được nhân quả, làm chủ sự sống chết và chấm dứt tái
sinh luân hồi.
Tu theo Phật giáo là buông xả,
buông xả tất cả phải trái, tốt xấu, trắng đen, danh lợi, vật chất, tiền của,
ngay cả chính bản thân còn không giữ được huống lời qua tiếng lại mà không
buông xả được hay sao? Sao không tập im lặng như Thánh?
Lớp học đạo đức này là lớp học gạn
lọc những người có học đạo đức hay không học, những người có áp dụng đạo đức
hay không áp dụng. Những người nào có đạo đức thì những người đó mới được lên lớp
chuyên tu tập thiền định do trực tiếp Thầy hướng dẫn. Khi các tu sinh đến với
Thầy chắc không còn bao nhiêu người. Vì các tu sinh phải trải qua những lớp rèn
luyện nhân cách đạo đức Tam Quy, Ngũ Giới, Bát Giới và Thập Thiện. Những giới
luật được huấn luyện dạy rất kỹ càng giúp cho tu sinh dùng đạo đức làm chủ thân
tâm mình.
Nhân quả nghiệp báo thật là kinh
khủng, nếu không huấn luyện đạo đức thì con người sẽ luôn luôn chạy theo nhân
quả tạo biết bao nhiêu ác pháp, rồi cũng từ đó chịu biết bao nhiêu sự khổ đau của
nghiệp báo. Nếu cứ để mọi người chạy theo vòng tròn của nhân quả nghiệp báo thì
biết chừng nào ra khỏi. Nhân quả nghiệp báo là mê hồn trận, nếu mọi người không
theo con đường giới luật của Phật giáo thì không thể nào thoát ra khỏi mê hồn
trận này.
Đoạn tin tức trên đây cho chúng ta
biết nhân quả nghiệp báo là một đạo luật rất công minh, kẻ làm ác trả quả liền
như hai cháu thanh niên trên đây, còn bác Hóa thì trả nhân quả nghiệp báo kiếp
trước, từ trong kiếp quá khứ có gieo nhân ác để tạo thành một nền tảng nghiệp
báo của kiếp này mới gặp hai cháu thanh niên này. Ngay trong đời sống hiện tại
bác Hóa, do không từ bỏ giết hại và ăn thịt chúng sinh, vì thế nhân quả không
chuyển đổi được nên đến giờ trả quả thì bác Hóa phải chết trong cái chết đau
thương, xác được ném xuống ruộng như cá tôm.
Chúng ta là những đệ tử của đức Phật,
quyết tâm tu học theo những lời Phật dạy để chuyển đổi nhân quả, làm chủ sự sống
chết, chấm dứt tái sinh luân hồi, tức là làm chủ nhân quả nghiệp báo. Và nhất định
chúng ta sẽ làm được; và làm được trong một đời này, không phải chờ đợi nhiều đời,
nhiều kiếp sau nữa. Quyết một lòng giữ gìn đức hạnh và giới luật tu hành đến
cùng, chẳng bỏ cuộc. Phải không các tu sinh?
Quý tu sinh hãy cố gắng bền chí tu
học giới luật đức hạnh cho thông suốt, cho thấm nhuần, để biến giới luật đức hạnh
là mình, mình là giới luật đức hạnh.
Học tập và rèn luyện nhân cách về
giới luật đức hạnh không phải học để hiểu suông, mà học để sống. Học để sống là
phải siêng năng bền chí, hằng ngày đều tác ý khi gặp phải những đối tác làm mất
sự bình tĩnh. Khi tâm mất bình tĩnh thì tất cả ác pháp sẽ tấn công vào tâm và
chừng đó đức hạnh không còn nữa, chỉ còn lại một bãi chiến trường đau khổ.
Cho nên, dù chuyện lớn hay chuyện
nhỏ, chúng ta đều phải nhắc tâm: “Tất cả mọi việc xảy ra trên thế gian này đều
là do nhân quả”. Mà nhân quả thì luôn luôn biến đổi, vì vậy mọi vật đều
biến đổi thì có vật nào là của ta, thì có việc gì là phải là trái; thì có việc
gì là đúng là sai, tất cả là trò diễn kịch của nhân quả theo nghiệp mà tác động,
tạo ra biết bao nhiêu sự khổ đau cho mình, cho người. Vậy chúng ta chỉ còn biết
thương yêu chứ không nên ghét ai cả. Vì thế đức Phật dạy: “Thấy lỗi mình đừng thấy lỗi người”.
Cho nên mỗi khi có điều gì xảy ra chúng ta nên thấy lỗi mình, đó là câu tác ý
hay nhất.
BÀI HỌC THỨ SÁU:
RÈN NHÂN CÁCH
ĐẠO ĐỨC LY THAM Ý HÀNH, THÂN HÀNH, KHẨU HÀNH:
Đứng
trước vành móng ngựa là người đàn ông tuổi ngoài bốn mươi, da đen, thân hình gầy
gò với khuôn mặt khắc khổ. Bị cáo đưa mắt nhìn hai đứa cháu ruột như muốn van
xin sự tha thứ về tội lỗi mình đã gây ra, khiến chúng vốn mồ côi mẹ nay lại mất
cha trong nỗi đau đớn ê chề.
Cách đây 25 năm, Nguyễn Văn B và cô thôn nữ Trần Thị H
cưới nhau và sinh được hai người con là Nguyễn Văn T và Nguyễn Thị N. Hạnh phúc
gia đình họ đang ấm êm thì chị H qua đời (năm 1993), ông B dắt hai con về gởi
bên ngoại để các dì nuôi dưỡng rồi bỏ đi biền biệt. Đầu tháng 8/2005, Ông B
quay về quê và tạm trú tại nhà anh ruột duy nhất là Nguyễn Văn M. Nguyễn Văn M
cũng có vợ và một con trai, nhưng với bản tính hung bạo, thường “thượng cẳng chân, hạ cẳng tay”, nên bà
S (vợ ông M) cùng đứa con trai đã ra ở riêng, chỉ còn ông M sống một mình trong
ngôi nhà của cha mẹ để lại, hằng ngày kiếm sống bằng nghề chài lưới trên sông.
Theo như lời khai nhận của Nguyễn Văn M trước cơ quan Công An, thì sau khi về
quê, ông B đến ở chung với M và hai lần có đề cập đến chuyện dựng nhà trên mảnh
đất hương hỏa, nhưng M không đồng ý. Chừng 7 giờ tối ngày 13/9/2005, hai anh em
họ lại có cuộc tranh luận rồi dẫn đến cãi vã gay gắt cũng lại về chuyện đất
đai. Không kiềm chế được bản thân, ông M chạy ra ngoài lấy chiếc rựa sắt, quay
vào nhà chém ông B lúc đó đang ngồi quay lưng ra cửa cho đến chết.
Ngay đêm đó, Nguyễn Văn M dùng dây buộc nạn nhân kéo
ra sông cách nhà 40m. Sau đó dùng ghe chở qua bên kia sông gò bồi để phi tang.
Nguyễn Văn M nghĩ rằng thủy triều lên sẽ kéo xác nạn nhân ra biển. Sự mất tích
của Nguyễn Văn B cũng chẳng có gì quan trọng, bởi trước đây 12 năm B cũng từng
bỏ đi, chắc sẽ chẳng có ai thắc mắc gì ... Khoảng 5 giờ chiều ngày 16/9/2005, một
chiếc vỏ lãi chở đám cưới trên sông gò bồi thuộc địa phận huyện Tuy Phước đã
phát hiện một xác chết nổi lềnh bềnh trên sông và trôi dạt vào bờ, nên nhờ dân
địa phương báo tin cho Công An kịp thời có mặt tại hiện trường tổ chức vớt xác lên
bờ. Tử thi là một người đàn ông ngoài 40 tuổi, chết trước đó khoảng 3-4 ngày.
Trên thi thể có 12 vết thương, trong đó vùng đầu có 5 nhát. Nhận định đây có khả
năng là vụ giết người nhằm phi tang chứng, nên cơ quan điều tra đã kết hợp cùng
các cơ quan có chức năng nhanh chóng làm rõ vụ việc. Bước đầu cơ quan điều tra
nhận định nguyên nhân vụ án là vì mâu thuẫn cá nhân gay gắt, không loại trừ khả
năng giết người cướp tài sản, giữa nạn nhân và hung thủ có thể có mối quan hệ
thân thiết. Cũng trong ngày hôm đó, hàng trăm người dân đứng chật trên dòng
sông gò bồi bàn tán xôn xao. Tin đồn thất thiệt cũng được lan ra khắp nơi.
Nhưng tựu trung lại vẫn là nỗi xót xa cho người đàn ông đáng thương và sự căm
phẫn về hành vi phi nhân tính của hung thủ.
Công An huyện Tuy Phước phối hợp cùng các địa bàn lân
cận rà soát kỹ xem có trường hợp người nào bị mất tích không, đồng thời chỉ đạo
phòng nghiệp vụ khẩn trương truy tìm tung tích nạn nhân, bởi đó là mấu chốt để
tìm ra đầu mối vụ án. Do tử thi hoại tử và biến dạng nên việc nhận diện không
thể tiến hành được, chỉ biết rằng trên xác chết có một số vết xăm rất lạ mắt.
Tuy nhiên, đó lại chính là manh mối để tìm ra tung tích nạn nhân. Khi biết được
tin này, ông Nguyễn Văn C (47 tuổi) ở Phước Hoà đã đến gặp trực tiếp trinh sát.
Ông nói rằng: nếu nơi ngực nạn nhân có xăm hình 3 ngọn núi và đùi bên trái có
xăm hình cỗ quan tài có 3 ngọn nến và hai câu thơ ... thì đó chính là Nguyễn
Văn B, bạn ông. Trước kia, ông B có nhờ ông xăm những hình trên để làm kỷ niệm.
Như vậy, xác chết trên được khẳng định là ông Nguyễn Văn B. Sau khi xác nhận được
tung tích nạn nhân, cơ quan điều tra tiến hành rà soát các mối quan hệ mâu thuẫn
cá nhân và nhận định, có khả năng đây là vụ án có liên quan đến tình cảm gia
đình. Và hung thủ sa lưới.
Trong đám tang ông B, thân nhân hàng xóm đều tỏ vẻ
thương xót, duy chỉ có một người vẫn ráo nước mắt và luôn có nhiều biểu hiện bất
thường, đó là ông Nguyễn Văn M, anh ruột nạn nhân. Được biết nơi phát hiện xác
nạn nhân chỉ cách nhà ông M chừng 100 mét, nhưng ông ta vẫn dửng dưng, bàng
quan như không có chuyện gì xảy ra. Thời gian trước và sau khi phát hiện xác
ông B, Nguyễn Văn M đã án binh bất động trong nhà, cửa nẻo luôn được khóa chặt.
Chính vì thế Nguyễn Văn M là đối tượng có nhiều nghi vấn liên quan đến vụ án dã
man trên. Sau khi tổng hợp nhiều nguồn tin và tài liệu, cơ quan điều tra khẳng
định: Nguyễn Văn M chính là hung thủ đã giết ông Nguyễn Văn B. Tuy nhiên, quá
trình bắt giữ tiến hành rất khó khăn, bởi Nguyễn Văn M đã tử thủ trong nhà và
luôn cầm thuổng nhọn để hăm dọa lực lượng làm nhiệm vụ. Nhưng bằng mưu trí và
các biện pháp nghiệp vụ, lực lượng trinh sát đã khống chế được Nguyễn Văn M.
Khám xét nhà M, cơ quan Công An thu giữ được số hung khí và tang vật liên quan
đến vụ án. Qua đấu tranh khai thác, bước đầu Nguyễn Văn M đã khai nhận hành vi
giết em ruột mình. Mặc dù đã che dấu hành vi phạm tội một cách tinh vi, nhưng tội
ác dã man cuối cùng cũng đã bị lôi ra ánh sáng. Hành vi phạm tội của M đặc biệt
nghiêm trọng, không còn tính người, ra tay giết hại đứa em ruột máu mủ của mình
chỉ vì lợi ích cá nhân. Mới đây Nguyễn Văn M đã phải ra trước vành móng ngựa để
lãnh nguyên bản án cho những hành động
của mình.
(Báo Công An Thành Phố Hồ Chí Minh
Trần Kim Anh)
--o0o--
1-
“Cách
đây 25 năm, Nguyễn Văn B và cô thôn nữ Trần Thị H cưới nhau và sinh được hai
người con là Nguyễn Văn T và Nguyễn Thị N. Hạnh phúc gia đình họ đang ấm êm thì
chị H qua đời (năm 1993)”.
Câu này dạy đạo đức gì?
2-
“Ông B dắt hai con về gởi bên
ngoại để các dì nuôi dưỡng rồi bỏ đi biền biệt”. Câu này dạy đạo đức gì?
3-
“Đầu tháng 8/2005, Ông B quay về
quê và tạm trú tại nhà anh ruột duy nhất là Nguyễn Văn M. Nguyễn văn M cũng có
vợ và một con trai, nhưng với bản tính hung bạo, thường “thượng cẳng chân, hạ cẳng
tay”, nên bà S (vợ ông M) cùng đứa con trai đã ra ở riêng”. Câu này dạy đạo đức gì?
4-
“Chỉ còn ông M sống một mình
trong ngôinhà của cha mẹ để lại, hàng ngày kiếm sống bằng nghề chài lưới trên
sông”. Câu này dạy đạo đức gì?
5-
“Theo như lời khai nhận của Nguyễn
Văn M trước cơ quan Công An, thì sau khi về quê, ông B đến ở chung với M và hai
lần có đề cập đến chuyện dựng nhà trên mảnh đất hương hỏa, nhưng M không đồng
ý”. Câu này dạy đạo đức gì?
6-
“Chừng 7 giờ tối ngày 13/9/2005,
hai anh em họ lại có cuộc tranh luận rồi dẫn đến cãi vã gay gắt cũng lại về
chuyện đất đai. Không kiềm chế được bản thân, ông M chạy ra ngoài lấy chiếc rựa
sắt, quay vào nhà chém ông B lúc đó đang ngồi quay lưng ra cửa cho đến chết”. Câu này dạy đạo đức gì?
7-
“Ngay đêm đó, Nguyễn Văn M dùng
dây buộc nạn nhân kéo ra sông cách nhà 40m. Sau đó dùng ghe chở qua bên kia
sông gò bồi để phi tang. Nguyễn Văn M nghĩ rằng thủy triều lên sẽ kéo xác nạn
nhân ra biển. Sự mất tích của Nguyễn Văn B cũng chẳng có gì quan trọng, bởi trước
đây 12 năm B cũng từng bỏ đi, chắc sẽ chẳng có ai thắc mắc gì”. Câu này dạy đạo đức gì?
8-
“Khoảng 5 giờ chiều ngày
16/9/2005, một chiếc vỏ lãi chở đám cưới trên sông gò bồi thuộc địa phận huyện
Tuy Phước đã phát hiện một xác chết nổi lềnh bềnh trên sông và trôi dạt vào bờ,
nên nhờ dân địa phương báo tin cho Công An kịp thời có mặt tại hiện trường tổ
chức vớt xác lên bờ. Tử thi là một người đàn ông ngoài 40 tuổi, chết trước đó
khoảng 3-4 ngày. Trên thi thể có 12 vết thương, trong đó vùng đầu có 5 nhát. Nhận
định đây có khả năng là vụ giết người nhằm phi tang chứng, nên cơ quan điều tra
đã kết hợp cùng các cơ quan có chức năng nhanh chóng làm rõ vụ việc”. Câu này dạy đạo đức gì?
9-
“Bước đầu cơ quan điều tra nhận
định nguyên nhân vụ án là vì mâu thuẫn cá nhân gay gắt, không loại trừ khả năng
giết người cướp tài sản, giữa nạn nhân và hung thủ có thể có mối quan hệ thân
thiết. Cũng trong ngày hôm đó, hàng trăm người dân đứng chật trên dòng sông gò
bồi bàn tán xôn xao. Tin đồn thất thiệt cũng được lan ra khắp nơi. Nhưng tựu
trung lại vẫn là nỗi xót xa cho người đàn ông đáng thương và sự căm phẫn về
hành vi phi nhân tính của hung thủ”. Câu này dạy đạo đức gì?
10-
“Công An huyện Tuy Phước phối hợp
cùng các địa bàn lân cận rà soát kỹ xem có trường hợp người nào bị mất tích
không, đồng thời chỉ đạo phòng nghiệp vụ khẩn trương truy tìm tung tích nạn
nhân, bởi đó là mấu chốt để tìm ra đầu mối vụ án. Do tử thi hoại tử và biến dạng
nên việc nhận diện không thể tiến hành được, chỉ biết rằng trên xác chết có một
số vết xăm rất lạ mắt. Tuy nhiên, đó lại chính là manh mối để tìm ra tung tích
nạn nhân”. Câu này dạy đạo đức gì?
11-
“Khi biết được tin này, ông Nguyễn
Văn C (47 tuổi) ở Phước Hoà đã đến gặp trực tiếp trinh sát. Ông nói rằng: nếu
nơi ngực nạn nhân có xăm hình 3 ngọn núi và đùi bên trái có xăm hình cỗ quan
tài có 3 ngọn nến và hai câu thơ ... thì đó chính là Nguyễn Văn B, bạn ông. Trước
kia, ông B có nhờ ông xăm những hình trên để làm kỷ niệm. Như vậy, xác chết
trên được khẳng định là ông Nguyễn Văn B”. Câu này dạy đạo đức gì?
12-
“Sau khi xác nhận được tung tích
nạn nhân, cơ quan điều tra tiến hành rà soát các mối quan hệ mâu thuẫn cá nhân
và nhận định, có khả năng đây là vụ án có liên quan đến tình cảm gia đình. Và
hung thủ sa lưới”. Câu này dạy đạo đức gì?
13-
“Trong đám tang ông B, thân nhân
hàng xóm đều tỏ vẻ thương xót, duy chỉ có một người vẫn ráo nước mắt và luôn có
nhiều biểu hiện bất thường, đó là ông Nguyễn Văn M, anh ruột nạn nhân. Được biết
nơi phát hiện xác nạn nhân chỉ cách nhà ông M chừng 100 mét, nhưng ông ta vẫn dửng
dưng, bàng quan như không có chuyện gì xảy ra”. Câu này dạy đạo đức gì?
14-
“Thời gian trước và sau khi phát
hiện xác ông B, Nguyễn Văn M đã án binh bất động trong nhà, cửa nẻo luôn được
khóa chặt. Chính vì thế Nguyễn Văn M là đối tượng có nhiều nghi vấn liên quan đến
vụ án dã man trên”.
Câu này dạy đạo đức gì?
15-
“Sau khi tổng hợp nhiều nguồn
tin và tài liệu, cơ quan điều tra khẳng định: Nguyễn Văn M chính là hung thủ đã
giết ông Nguyễn Văn B. Tuy nhiên, quá trình bắt giữ tiến hành rất khó khăn, bởi
Nguyễn Văn M đã tử thủ trong nhà và luôn cầm thuổng nhọn để hăm dọa lực lượng
làm nhiệm vụ. Nhưng bằng mưu trí và các biện pháp nghiệp vụ, lực lượng trinh
sát đã khống chế được Nguyễn Văn M. Khám xét nhà M, cơ quan Công An thu giữ được
số hung khí và tang vật liên quan đến vụ án. Qua đấu tranh khai thác, bước đầu
Nguyễn Văn M đã khai nhận hành vi giết em ruột mình”. Câu này dạy đạo đức gì?
16-
“Mặc dù đã che dấu hành vi phạm
tội một cách tinh vi, nhưng tội ác dã man cuối cùng cũng đã bị lôi ra ánh sáng.
Hành vi phạm tội của M đặc biệt nghiêm trọng, không còn tính người, ra tay giết
hại đứa em ruột máu mủ của mình chỉ vì lợi ích cá nhân. Mới đây Nguyễn Văn M đã
phải ra trước vành móng ngựa để lãnh nguyên bản án cho những hành động của
mình”. Câu này dạy đạo đức gì?
--o0o--
1-
“Cách đây 25 năm, Nguyễn Văn B và
cô thôn nữ Trần Thị H cưới nhau và sinh được hai người con là Nguyễn Văn T và
Nguyễn Thị N. Hạnh phúc gia đình họ đang ấm êm thì chị H qua đời (năm 1993)”. Câu này dạy HẠNH VÔ THƯỜNG THEO
QUI LUẬT NHÂN QUẢ.
Điều mà người ta gọi là hạnh phúc gia đình, thì ở đây
chúng ta thấy vợ chồng anh B có hạnh phúc không? Lập gia đình suốt 25 năm, sinh
ra hai đứa con: Một trai, một gái, nhưng rồi vợ chết, anh không nuôi con mà đem
con gửi cho bên ngoại nuôi, rồi bỏ đi biền biệt 12 năm.
Hạnh phúc của thế gian thật là đau khổ, khi chồng hoặc
vợ chết còn lại một mình với bao kỷ niệm vui buồn cay đắng và còn một gánh nặng
trên vai là phải nuôi con đó là bổn phận, trọng trách gánh vác gia đình và như
vậy là hạnh phúc sao?
Trong bài này chúng ta thấy anh B sống chỉ toàn là một
cuộc sống đau khổ, vợ chết bỏ con cho người khác nuôi và như vậy là một người
cha thiếu đạo đức, đành bỏ con mình giao cho người khác nuôi, trong khi chúng
nó được sinh ra bằng máu thịt của mình, bằng tình yêu thương của mình, thế mà
anh B nỡ tâm bỏ chúng cho người khác nuôi thật là đáng trách.
Thật đáng thương cho hai trẻ mất mẹ lại mất cha, cuộc
đời của chúng làm sao biết được tình yêu thương âu yếm của mẹ lẫn cha như thế
nào? Riêng chúng ta đến tuổi này (50, 60 tuổi) mà có người cha mẹ vẫn còn sống.
Cha mẹ còn sống tại tiền là một điều phước báu vô cùng, chúng ta là những đứa
con có hạnh phúc rất lớn, sống trong tình yêu thương của cha mẹ. Vì vậy chúng
ta hãy làm sao cho cha mẹ được vui lòng. Muốn cha mẹ được vui lòng chúng ta hãy
tu hành sống đúng đức hạnh và giới luật của Phật giáo để ước nguyện và dạy lại
cho cha mẹ những điều mình đã học và tu tập, nhờ đó mới đem lại cho cha mẹ một
hướng đi đúng đắn, để cha mẹ tự làm chủ sự sống chết và chấm dứt tái sinh luân
hồi. Ấy là làm vui lòng cha mẹ.
Cho nên cuộc đời sinh ra là một chuỗi thời gian đau khổ,
người ta lầm tưởng có vợ có con, có gia đình là hạnh phúc. Sự thật không có gia
đình nào có hạnh phúc chân thật. Họ chỉ nương tựa vào nhau để mà sống, chịu đựng
vì con cái, vì danh dự, sợ người ta cười chê, v.v..
Tóm lại, những điều người ta cho là hạnh phúc, đó là
những điều mà người ta đang chạy theo dục, tìm cầu dục. Dục ví như cục xương, bỏ
thì tiếc nhưng ôm nhai hoài chẳng có lợi ích gì. Càng nhai, càng lúc lại càng
khổ đau hơn.
--o0o--
2-
“Ông B dắt hai con về gởi bên ngoại
để các dì nuôi dưỡng rồi bỏ đi biền biệt. Câu này dạy THIẾU ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH TRÁCH NHIỆM BỔN PHẬN.
Trong xã hội loài người có biết bao trẻ mồ côi, khi
cha mẹ sinh ra sợ tai tiếng xấu xa, trong khi mình đã làm những điều xấu xa mà
còn tránh xấu xa là tránh cái gì? Nỡ lòng nào đem ném bỏ con mình như ném bỏ một
món đồ phế thải trong thùng rác. Có một em bé cũng bị mẹ ném bỏ trong thùng
rác, đàn chó đã gặm nát đôi chân của em, may nhờ có người phát giác kịp thời đem
em bé vào bệnh viện cứu chữa, thật là đáng thương!
Làm cha mẹ sống không thương con cái của mình thì còn
ai thương con cái của mình bằng cha mẹ. Thời đại của chúng ta là một thời đại đạo
đức đang xuống cấp, tình thương yêu đã mất. Tình thương yêu đã mất thì con người
còn thua xa loài thú vật. Có đúng như vậy không quý vị?
Ngay chính con họ sinh ra mà họ còn bỏ được huống là
những người khác thì làm sao họ thương yêu ai. Họ thương chỉ là đầu môi chót lưỡi
mà thôi.
Những trẻ mồ côi sống bằng tình thương của những nhà từ
thiện, của những người xa lạ. Có những nơi nuôi trẻ mồ côi người đứng ra tổ chức
nuôi trẻ là những người cùng có những hoàn cảnh sống mồ côi, nhờ đó họ cảm
thông nhau nên rất thương trẻ mồ côi như chính bản thân họ.
Hỡi các bậc làm cha mẹ! Phải lấy đạo đức hiếu sinh
trách nhiệm bổn phận làm người, làm đầu cuộc sống. Làm cha mẹ không được quyền
bỏ con cái của mình cho người khác nuôi. Trên cuộc đời này đau thương nhiều lắm,
đừng gây thêm những đau thương nữa.
Hỡi các bà mẹ trẻ! Đừng nạo thai, móc bỏ thai nhi tội
lắm! Các thai nhi có tội tình gì mà phải chịu chết một cách oan uổng từ trong
trứng nước. Một em bé ra đời, nó có quyền sống như mọi người, không ai có quyền
ném bỏ các em, hãy yêu thương che chở và đùm bọc các em, hãy nuôi dưỡng các em
như chính nuôi dưỡng thân mình.
Ai gây ra tội lỗi, chứ các em có làm tội lỗi gì đâu?
Mà xã hội xua đuổi các em? Các em có biết gì đâu? Có làm nên tội gì đâu trong
hiện kiếp này? Hỡi các bà mẹ trẻ! Sao lại nỡ tâm đem ném bỏ các em bên bờ ao, bờ
sông, dòng suối hoặc trong thùng rác, tiếng kêu khóc của các em thật là thảm
thiết. Danh dự mà chi, quyền lợi để làm gì đây? Hỡi các bà mẹ trẻ! Khi sinh con
ra không có danh dự nào bằng danh dự đạo đức hiếu sinh trách nhiệm và bổn phận
làm mẹ là phải yêu thương nuôi dưỡng các em, không có ai có quyền ném bỏ các
em. Phải không quý vị?
--o0o--
3-
“Đầu tháng 8/2005, Ông B quay về
quê và tạm trú tại nhà anh ruột duy nhất là Nguyễn Văn M. Nguyễn văn M cũng có
vợ và một con trai, nhưng với bản tính hung bạo, thường “thượng cẳng chân, hạ cẳng
tay”, nên bà S (vợ ông M) cùng đứa con trai đã ra ở riêng”. Câu này dạy VÔ ĐẠO ĐỨC HIẾU SINH THÂN, KHẨU, Ý
HÀNH.
Người hung dữ là người sống vô đạo đức hiếu sinh, họ
chẳng biết thương ai. Chính ngay bản thân của họ, họ còn không thương. Người
hung dữ là người luôn làm khổ thân họ nhiều nhất, nhưng họ làm khổ họ là họ đã
làm khổ mọi người. Họ là người vô minh, là người ngu si không trí tuệ chỉ biết
hung dữ do lòng tham lam điều khiển, cho nên họ mất hết tính người, họ là một
tên nô lệ luôn luôn làm theo nghiệp lực của nhân quả ác, nên tạo ra vô vàn sự
đau khổ, cho mình, cho người.
Như ông M giết người em ruột thịt của mình để giành đất
hương quả, khiến cho hai đứa trẻ mồ côi mẹ, bây giờ lại mồ côi cha, thật là tội
nghiệp vô cùng. Cha mẹ không còn nương tựa với dì biết có bằng tình thương yêu
của mẹ không? Ai có mồ côi cha lẫn mẹ mới thấy sự đau khổ này; mới cảm thông với
các em mồ côi cha lẫn mẹ; mới thấy tình yêu thương của cha mẹ là quan trọng nhất.
Ông M hung dữ, ngay cả vợ con ông còn không ở với ông được thì còn ai sống với
ông nổi. Cho nên ông B về ở chung với ông anh hung dữ mà không cảnh giác, cho
nên ông B phải chịu chết một cách oan uổng và đau thương.
Trong đời sống hằng ngày, nếu chúng ta sống gần với những
người hung dữ thì nay không có chuyện này thì mai sẽ xảy ra chuyện khác, mà có
chuyện xảy ra là có sự đau khổ, vì vậy chúng ta nên tránh xa họ. Tránh xa họ là
để họ không làm khổ chúng ta, nhờ đó chúng ta không trở thành đối tượng của họ,
vì thế cuộc sống mới được an vui. Xưa bà Mạnh mẫu vì muốn giáo dục con mình để
trở thành người lương thiện, người có đạo đức, nên nhiều lần bà thay đổi chỗ ở,
nhờ đó đất nước Trung Hoa mới có ngài Mạnh Tử, một người Hiền mà đất nước này
thường nhắc đến như một bậc Thánh.
Tránh xa người hung dữ là một điều phòng ngừa tốt cho
cuộc sống được bình an; Tránh xa người hung dữ là để gạn lọc tâm tư của mình
cho thật sạch tâm tham, sân, si, mạn, nghi. Người trí tuệ bao giờ cũng thấy điều
này, vì thế, tránh xa người hung dữ là thượng sách.
--o0o--
4-
“Chỉ còn ông M sống một mình trong
ngôi nhà của cha mẹ để lại, hàng ngày kiếm sống bằng nghề chài lưới trên sông”. Câu này dạy NGHỀ NGHIỆP THIẾU ĐẠO ĐỨC HIẾU
SINH THÂN HÀNH.
Ông M tính tình đã hung dữ lại thêm làm nghề chài lưới
cá tôm trên sông, đó là làm một nghề ác giết hại chúng sinh. Làm nghề như vậy
làm sao không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh. Vì thế ông trở
thành người hung ác bậc nhất là đúng. Khi cầm rựa chém người em ruột của mình
cho đến chết mà không chút lòng thương xót thì thật là một con người mất nhân
tính.
Đối với chúng ta là những người tu theo Phật giáo lấy
đức hiếu sinh làm sự sống cho mình. Vì thế gặp ai hung dữ thì nên tránh xa.
Tránh xa chính vì biết mình chưa đủ năng lực thiện pháp để chuyển hóa hay nhiếp
phục ác pháp nơi những người đó; tránh xa không phải chúng ta hèn nhát sợ hãi
không dám đương đầu với họ; tránh xa là điều cần thiết tốt nhất. Vì chúng ta là
những người sống ngăn ác, diệt ác pháp trong tâm, chứ không phải ngăn ác diệt
ác pháp bên ngoài, nên cần tránh xa là điều tốt nhất trên bước đường tu hành
theo Phật giáo. Nhất là chúng ta đang thực hiện đức hiếu sinh. Chúng ta biết rằng:
Chúng ta tránh xa họ là vì chúng ta không đủ sức cảm hóa được họ, nhưng lòng
chúng ta luôn luôn thương yêu họ chứ không phải thấy họ hung dữ, ác hại; tránh
xa họ không phải là vì ghét họ. Người đệ tử Phật chỉ biết có thương yêu, chớ
không có quyền ghét ai hết. Người đệ tử Phật nói ghét người khác là không phải
người đệ tử của Phật. Chúng ta tránh xa họ vì chúng ta không cảm hóa chuyển đổi
họ thành người lương thiện. Không cảm hoá được họ thì nên tránh xa như đức Phật
đã dạy: “Những gì cần phải tránh xa thì nên tránh xa”.
Tránh xa người hung dữ cũng là một pháp môn tu tập
trong Phật giáo, chứ không phải tránh xa là trốn tránh như trốn tù tội, như hèn
nhát sợ hãi.
Tránh xa là đối với những người này không nên qua lại
giao tiếp, chơi thân với họ; khi giao tiếp thì phải luôn luôn dè dặt cẩn thận từng
lời nói, từng hành động đừng để va chạm đến họ, đừng xem thường họ, đừng khinh
chê họ, nhưng đừng thân thích với họ như trên đã nói.
--o0o--
5-
“Theo như lời khai nhận của Nguyễn
Văn M trước cơ quan Công An, thì sau khi về quê, ông B đến ở chung với M và hai
lần có đề cập đến chuyện dựng nhà trên mảnh đất hương hỏa, nhưng M không đồng
ý”. Câu này dạy THIẾU ĐỨC LY THAM HIẾU SINH KHẨU
HÀNH, Ý HÀNH.
Ông M rất tham lam, đất hương hỏa là đất của cha mẹ,
là đất của chung, thế mà ông muốn giành cho riêng mình. Cho nên khi người em, tức
là ông B xin anh chia ra cho chút ít để cất nhà ở thì tai họa đến mà không lường
trước được.
Lòng tham của con người không đáy, cho nên không biết
bao nhiêu của cải tài sản tiền bạc lấp đầy được lòng tham? Chính trong xã hội
loài người trộm cắp, cướp giật giết người đều do chính lòng tham mà ra. Ông M
giết ông B cũng chính lòng tham quá lớn.
Lòng tham ghê gớm lắm! Vì thế, người tu hành lúc nào cũng
cảnh giác thường quan sát tâm mình, khi thấy nó mống khởi lòng tham lam dù bất
cứ nó tham lam một việc nhỏ nhặt nào chúng ta cũng đều phải phát hiện để ngăn
chặn và nhất định phải diệt trừ lòng tham. Muốn diệt trừ lòng tham thì chỉ có đức
ly tham, đức ly tham là một đức hạnh tuyệt vời, nó giúp chúng ta không còn tham
ăn, tham ngủ, tham tiền, tham bạc, tham danh, tham lợi, tham sắc v.v.. Nó giúp
chúng ta không trở thành người hung ác.
Chúng ta là đệ tử của Phật, chúng ta phải làm sao để dứt
trừ tâm tham, sân, si, mạn, nghi. Đó là những tâm ác độc khiến chúng ta trôi
lăn trong sáu nẻo luân hồi, chịu biết bao nhiêu sự khổ đau từ kiếp này sang kiếp
khác. Vì thế, chúng ta phải sáng suốt đừng để tâm tham đắm mà giặc sinh tử luân
hồi sẽ cướp mạng sống của chúng ta, mà chính tâm tham đắm biến chúng ta trở
thành người hung ác. Những người nô lệ cho giặc nhân quả luân hồi.
--o0o--
6-
“Chừng 7 giờ tối ngày 13/9/2005,
hai anh em họ lại có cuộc tranh luận rồi dẫn đến cãi vã gay gắt cũng lại về
chuyện đất đai. Không kiềm chế được bản thân, ông M chạy ra ngoài lấy chiếc rựa
sắt, quay vào nhà chém ông B lúc đó đang ngồi quay lưng ra cửa cho đến chết”.
Câu này dạy THIẾU ĐỨC LY THAM KHÔNG KIỀM CHẾ HIẾU SINH
THÂN HÀNH.
Cho nên lòng tham không đáy làm cho ông M mờ mắt người,
mờ lương tri, làm cho đức hiếu sinh biến mất và đức ly tham không còn, nên ông
M mới nỡ nhẫn tâm chém người em cho đến chết.
Ghê gớm thật, cầm cái rựa mà chém đến chết người thì
thật là hãi hùng, không biết làm sao mà họ làm được. Nhưng tại sao ông B không
cảnh giác, khi thấy anh mình vác rựa thì chạy trước đi có phải hơn không?
Ngồi lại chống cự là một cách dại dột ngu si, con người
làm ra của cải, chứ đâu phải của cải làm ra con người, thế mà người em ngồi lại
đó chống cự để giành nhau chia miếng đất hương hỏa, cho nên tai họa mới xảy đến.
Đó là ông B cũng vì lòng tham, chứ nếu không có lòng tham khi thấy ý người anh
không bằng lòng chia đất hương quả liền bỏ đi nơi khác làm ăn thì có đâu cái chết
oan uổng xảy ra như thế này.
Lòng tham của con người ghê thật biến con người trở
thành những tên sát thủ hung ác. Bởi vậy con người cần phải học đạo đức, vì
chính đạo đức mới đem lại cho loài người lòng thương yêu, lòng tha thứ; chính đạo
đức mới đem lại đức ly tham khiến con người không còn tham đắm những vật chất
thế gian, khiến con người mới trở thành thánh hiền, khiến con người mới đem lại
sự bình an cho con người. Chính nhờ đạo đức mà con người mới biến cuộc sống
trên hành tinh này trở thành cõi Cực Lạc, Thiên Đàng.
Đức kiềm chế hiếu sinh là một đức hạnh dùng để ngăn và
diệt các ác pháp. Cho nên người nào kiềm chế được tâm hung ác của mình là tránh
đi những việc làm khổ đau sẽ mang lại cho mình, cho người.
Tóm lại đức kiềm chế hiếu sinh thân hành là một đức hạnh
rất cần thiết trong giai đoạn người mới học đạo đức hiếu sinh và đức ly tham
trong NGŨ GIỚI.
--o0o--
7-
“Ngay đêm đó, Nguyễn Văn M dùng
dây buộc nạn nhân kéo ra sông cách nhà 40m. Sau đó dùng ghe chở qua bên kia
sông gò bồi để phi tang. Nguyễn Văn M nghĩ rằng thủy triều lên sẽ kéo xác nạn
nhân ra biển. Sự mất tích của Nguyễn Văn B cũng chẳng có gì quan trọng, bởi trước
đây 12 năm B cũng từng bỏ đi, chắc sẽ chẳng có ai thắc mắc gì”. Câu này dạy MẤT NHÂN TÍNH THIẾU ĐỨC HIẾU SINH
THÂN HÀNH.
Sau khi giết chết người em, người anh mất nhân tính lại
nhẫn tâm thật đáng trách, đó là dùng dây cột xác người em lôi đi 40m như lôi một
con chó. Người ta nuôi chó mèo khi chết người ta còn không lôi như vậy, mà còn
khiêng đi chôn cất tử tế với lòng yêu thương trìu mến.
Hình ảnh cột xác người em lôi đi như lôi xác một con
thú, thật là xót dạ vô cùng. Đức hiếu sinh của con người ở đâu, hỡi loài người?
Ông B là người em ruột thịt của ông M, vậy mà khi ông giết chết lại không được
ông cho người em một chiếc chiếu rách để gói xác thân cuối cùng hay sao? Ông M
đã mất hết nhân tính.
Khi lòng tham ngự trị trong tâm thì tình nghĩa cha
con, anh em ruột thịt như không còn nữa, chỉ còn có biết đất đai, ruộng vườn,
tiền bạc, của cải là trên hết.
Nếu lòng tham ngự trị trong tâm, thì có ai xâm chiếm đến
của cải, tài sản của mình thì lòng tham trỗi dậy ngay liền, biến ra ngôn ngữ
cãi cọ, chửi mắng nhau kịch liệt; biến ra thành hành động đánh nhau và có thể
giết nhau mà lúc bấy giờ không hề sợ pháp luật và tù tội. Lòng tham không đáy
biến anh em chị em cha mẹ trở thành những người thù oán, vì thế có thể giết
nhau mà không chút lòng thương xót.
Lòng tham lam ghê gớm thật nó thường mang đến tai họa
cho mình, cho người. Vì vậy chúng ta phải thường xuyên nhắc nhở tâm mình, lúc
nào cũng sống với đức ly tham, muốn sống với đức ly tham thì phải tận tâm tận lực
dùng đức hiếu sinh để quét sạch lòng tham lam, ham muốn của mình.
Nếu mọi người đã học đức ly tham thì hằng ngày phải cố
gắng sống với đức ly tham, đừng bao giờ xa lìa nó, vì xa lìa đức ly tham thì
muôn ngàn sự đau khổ sẽ đến với chúng ta ngay liền.
Một hình ảnh người anh ruột thịt, vì tranh nhau miếng
đất hương hỏa mà nỡ tâm giết chết người em, rồi lôi đi và ném bỏ ngoài sông Gò
Bồi chẳng chút lòng yêu thương. Thật là ghê gớm, lòng tham lam hung dữ của con
người thật là ác độc.
--o0o--
8-
“Khoảng 5 giờ chiều ngày
16-9-2005, một chiếc vỏ lãi chở đám cưới trên sông Gò Bồi thuộc địa phận huyện
Tuy Phước đã phát hiện một xác chết nổi lềnh bềnh trên sông và trôi dạt vào bờ,
nên nhờ dân địa phương báo tin cho Công An kịp thời có mặt tại hiện trường tổ
chức vớt xác lên bờ. Tử thi là một người đàn ông ngoài 40 tuổi, chết trước đó
khoảng 3-4 ngày. Trên thi thể có 12 vết thương, trong đó vùng đầu có 5 nhát. Nhận
định đây có khả năng là vụ giết người nhằm phi tang chứng, nên cơ quan điều tra
đã kết hợp cùng các cơ quan có chức năng nhanh chóng làm rõ vụ việc”. Câu này dạy NHÂN QUẢ NGHIỆP BÁO, NHÂN GIẾT NGƯỜI
QUẢ TÙ TỘI TỬ HÌNH.
Ông M giết người không thể nào tránh khỏi nhân quả
nghiệp báo, cho nên người ta phát hiện ra tử thi, thay vì thủy triều lên lôi
xác ông B sẽ theo dòng nước cuốn ra biển như ông M dự định trong trí. Nhưng
trái lại xác ông B không trôi ra biển mà lại trôi loanh quanh trong khúc sông
Gò Bồi đó. Nhờ vậy nhân dân phát giác thi thể người chết, công an nhập cuộc
truy quét những tội phạm.
Báo chí thường đăng tin tức những vụ giết người cướp của
đôi khi phi tang còn chặt ra từng khúc đem bỏ chỗ này một khúc, chỗ kia một
khúc để đánh lạc hướng điều tra của cơ quan an ninh. Nhưng những hành động hung
ác giết người không bao giờ trốn khỏi dù bỏ xứ đi nơi nầy nơi khác, nhưng cuối
cùng công an vẫn tìm ra thủ phạm. Luật nhân quả không thể tránh khỏi, nhân giết
người thì quả phải bị tù tội và án phải thọ tử hình.
Ông M tội giết người đã nặng mà tội giết em ruột của
mình còn nặng hơn, cho nên đạo đức hiếu sinh và đạo đức ly tham cần phải được
giáo dục cho mọi người ngay trong lúc này, nhờ mọi người có hiểu biết đạo đức
và pháp luật thì mới mong chặn đứng những bàn tay hung ác đẫm máu; để chặn đứng
những con người hung dữ chỉ biết của cải tài sản, chẳng biết thương mình thương
người.
Trước cảnh hằng ngày xảy ra biết bao nhiêu người bị trộm
cắp cướp của giết người, chết một cách thật oan uổng, mà chúng ta không cách
nào ngăn chặn được sao?
Dường như những người dân họ không sợ pháp luật, trước
mắt họ đều nghe thấy biết có pháp luật, có trại giam, có tòa án, nhưng khi lòng
tham lam trỗi dậy họ chẳng sợ gì cả. Những tội lỗi xảy ra như vậy, xét lại họ
là những người đáng thương hơn là đáng ghét, vì họ không hiểu biết đạo đức nhân
bản - nhân quả; họ đâu hiểu biết đức hiếu sinh và đức ly tham nên tình trạng cướp
của giết người thường xảy ra, những vụ án mạng mang đến con người chết một cách
xót xa và thương đau vô cùng. Mọi người ai cũng có ý thức, phải thấy trách nhiệm
trước những cái chết bi thảm ấy. Những người có khả năng chúng ta phân công đồng
tâm hợp lực để biên soạn sách đạo đức nhân bản nhân quả để giáo dục từng hành động,
từng ngôn ngữ lời ăn tiếng nói, từng sự suy nghĩ như thế nào đúng và như thế
nào sai để mọi người không còn vì của cải tài sản mà giết hại lẫn nhau chết một
cách thảm thương.
--o0o--
9-
“Bước đầu cơ quan điều tra nhận định
nguyên nhân vụ án là vì mâu thuẫn cá nhân gay gắt, không loại trừ khả năng giết
người cướp tài sản, giữa nạn nhân và hung thủ có thể có mối quan hệ thân thiết.
Cũng trong ngày hôm đó, hàng trăm người dân đứng chật trên dòng sông Gò Bồi bàn
tán xôn xao. Tin đồn thất thiệt cũng được lan ra khắp nơi. Nhưng tựu trung lại
vẫn là nỗi xót xa cho người đàn ông đáng thương và sự căm phẫn về hành vi phi
nhân tính của hung thủ”. Câu
này dạy ĐỨC HIẾU SINH Ý HÀNH.
Đứng trước cái chết do trộm cắp cướp của giết người ai
mà không căm phẫn trước những hành vi phi nhân tính của hung thủ. Nhờ đó người
dân họ sẽ cung cấp những điều cần thiết cho cơ quan Công an để tiến hành vụ điều
tra, làm sáng tỏ vụ án mạng lôi ra ánh sáng.
Ông M cũng không sao tránh khỏi, khi cơ quan an ninh bắt
tay vào thì việc gì cũng làm sáng tỏ, nhưng dù sao muốn truy ra được một tội phạm
cũng phải vất vả gian nan chứ không phải dễ dàng, nhiều khi các anh công an phải
đương đầu với những hung thủ một mất một còn, cho nên có nhiều người công an phải
hy sinh vì nhân dân, vì nước để giữ gìn trật tự an ninh, thật đáng ca ngợi đức
hy sinh cao cả ấy của những người thi hành giữ gìn an ninh.
Một hình ảnh đau thương khi các anh công an hy sinh để
lại một vợ hai con đứng trước áo quan của các anh, làm sao ai không xúc động
đau thương. Đọc tin tức hy sinh của các anh công an và hình ảnh đăng trên báo
chí khiến cho chúng tôi không cầm giữ được những giọt nước mắt thương đau. Do
đâu mà ra những nỗi thương đau như thế này. Chính lòng tham lam là thủ phạm, vậy
muốn triệt tiêu lòng tham lam thì chỉ có đức hiếu sinh và đức ly tham.
Chúng tôi ước mong sao Nhà nước sớm thực hiện chương
trình giáo dục đào tạo nhân dân học đạo đức nhân bản - nhân quả, không làm khổ
mình, khổ người để sớm chấm dứt nạn cờ gian, bạc lận, cá cược, cướp giật, hiếp
dâm, mãi dâm, rượu chè, xì ke, ma túy, v.v.. nói chung là tất cả tệ nạn xã hội.
Nhưng hiện nay tin tức báo chí cho biết tệ nạn ngày không thấy giảm mà còn gia
tăng nhiều hơn nữa.
--o0o--
10-
“Công An huyện Tuy Phước phối hợp
cùng các địa bàn lân cận rà soát kỹ xem có trường hợp người nào bị mất tích
không, đồng thời chỉ đạo phòng nghiệp vụ khẩn trương truy tìm tung tích nạn
nhân, bởi đó là mấu chốt để tìm ra đầu mối vụ án. Do tử thi hoại tử và biến dạng
nên việc nhận diện không thể tiến hành được, chỉ biết rằng trên xác chết có một
số vết xăm rất lạ mắt. Tuy nhiên, đó lại chính là manh mối để tìm ra tung tích
nạn nhân”. Câu này dạy ĐỨC NGHIỆP VỤ HIẾU SINH THÂN HÀNH.
Nghiệp vụ ngành Công an là phải truy quét những tội phạm,
những tệ nạn xã hội, nó đã gây rối loạn, làm mất trật tự an ninh và thường xảy
những án mạng.
Một án mạng xảy ra biết bao nhiêu công sức của ngành
Công an mới lôi ra được ánh sáng. Như vậy chúng ta thấy các anh công an phải
đem hết sức mình ra làm việc, theo dõi từng dấu vết nơi xảy ra án mạng, có nhiều
án mạng tưởng chừng như không thể tìm ra manh mối. Như bài báo trên đây, nếu
trên thân ông B không có những vết xăm thì làm sao biết được ông B, mà không biết
được ông B thì không thể nào tìm ra hung thủ. Đó chúng ta thấy truy tìm thủ phạm
không phải là một chuyện dễ, đòi hỏi trí óc làm việc của người công an rất nhiều.
Một lần nữa chúng tôi kêu gọi mọi người hãy đi học đạo
đức nhân bản - nhân quả và chính ngành Công an phải trực tiếp giúp đỡ cho những
nhà giáo dục để đạo đức nhân bản - nhân quả này được triển khai và đi sâu rộng
vào từng lớp nhân dân trong cả nước, thì chúng tôi tin rằng những tệ nạn xã hội
sẽ chấm dứt ngay liền, và ngành Công an các anh cũng đỡ vất vả hơn nhiều.
--o0o--
11-
“Khi biết được tin này, ông Nguyễn
Văn C (47 tuổi) ở Phước Hoà đã đến gặp trực tiếp trinh sát. Ông nói rằng: nếu
nơi ngực nạn nhân có xăm hình 3 ngọn núi và đùi bên trái có xăm hình cỗ quan
tài có 3 ngọn nến và hai câu thơ ... thì đó chính là Nguyễn Văn B, bạn ông. Trước
kia, ông B có nhờ ông xăm những hình trên để làm kỷ niệm. Như vậy, xác chết
trên được khẳng định là ông Nguyễn Văn B”. Câu này dạy DẤU VẾT ĐI TÌM TỘI PHẠM THUỘC VỀ ĐẠO ĐỨC
NHÂN QUẢ.
Qui luật nhân quả rất tuyệt vời, trong mọi án mạng dù
thủ phạm có khéo léo che đậy tội ác của mình đến đâu để tránh tội như thế nào,
nhưng cũng không thể tránh khỏi những sơ sót bỏ lại những vết tích phạm pháp,
tuy rất nhỏ như cọng rau muống đã ăn, như những sợi tóc, như những vết xăm
mình, như mùi nước hoa, v.v..
Nhờ đó mà những kẻ hung ác giết người sẽ không thoát
khỏi lưới pháp luật, và pháp luật sẽ dành riêng cho họ những bản án chung thân hay
tử hình thật là đúng người đúng tội.
Bởi vậy, những người hung ác giết người đừng xem thường
luật nhân quả; đừng cho rằng trên đời này mọi việc xảy ra đều do sự ngẫu nhiên,
không có đâu quý vị ạ!
Một hành động ác, một lời nói ác quý vị đừng tưởng nó bay
mất, nó không bay mất đâu quý vị ạ! Nó đang theo quý vị từng giây, từng phút
như hình với bóng. Nó đang chờ quý vị khi duyên phước báu hết là nó xử phạt quý
vị ngay liền. Một hành động ác mà quý vị đã làm cho người khác khổ đau thì quý
vị phải trả gấp 10 lần. Quý vị có thấy một cây cam hay cây mít không? Có bao giờ
chúng cho một trái hay cho nhiều trái? Quý vị cứ lấy đó mà suy ra thì sẽ biết?
Một trái đu đủ hay một trái mít có bao giờ có một hạt không? Cho nên, luật nhân
quả vay 1 trả 10, trả trăm lần quý vị có biết không?
--o0o--
12-
“Sau khi xác nhận được tung tích nạn
nhân, cơ quan điều tra tiến hành rà soát các mối quan hệ mâu thuẫn cá nhân và
nhận định, có khả năng đây là vụ án có liên quan đến tình cảm gia đình. Và hung
thủ sa lưới”. Câu này dạy ĐẠO ĐỨC NHÂN QUẢ NGHIỆP BÁO.
Công an đã rà soát biết ngay thủ phạm là ông M, người
anh ruột của ông Nguyễn Văn B. Bây giờ ông M đi ở tù, vay một trả 10, chắc ông
M bị tòa kêu nặng nhất về tội giết người, mà lại giết em ruột của mình. Ông M
không thể nào thoát khỏi án tử hình.
Đây, quý vị xét thấy ông M giết em mình thì phải đền tội
tử hình, và như vậy miếng đất hương hỏa ông có mang theo được đâu, thế mà tranh
giành làm gì để đi đến một hậu quả vô cùng đau đớn:
1-
Tù tội.
2-
Tử hình.
3-
Vợ đau khổ vì mất chồng.
4-
Mang tiếng đời là người hung dữ.
5-
Con đau khổ vì mất cha.
6-
Hai đứa cháu đã mồ côi mẹ nay lại
mồ côi cha có đau lòng không?
7-
Nỗi đau khổ của vợ con suốt đời
có chồng, người cha giết người.
8-
Hai cháu khổ đau suốt đời không
có tình thương cha lẫn mẹ.
9-
Gia đình vợ hay con cái đau ốm lấy
ai chăm sóc dạy dỗ.
10-
Suốt đời ôm hận làm sao giải tỏa.
Hãy buông xả cơn sân xuống bằng con đường đạo đức ly
tham thì mới mong có được sự bình an yên ổn và an vui, nếu không buông xả thì
cuộc đời không bao giờ có được phút bình an.
Ông M sau khi giết người em xong hằng ngày đâu phải
ông sống an ổn được sao? Lúc nào cũng lo sợ công an và mọi người phát giác ra
mình thì liệu ăn nói ra làm sao với mọi người, rồi tù tội rồi án tử hình, rồi vợ
con ra làm sao đây? Rồi của cải tài sản, rồi ngôi nhà và khu đất hương hỏa ai
ăn? Bao nhiêu sự suy tư làm cho kẻ giết người sống bất an.
Quý vị có thấy khi giết người cướp của thì luôn luôn ở
trong tâm sợ hãi, bất cứ thấy bóng dáng ai đều tưởng chừng như họ đã biết mình
giết người. Ban đêm ngủ thường nằm mơ thấy người bị giết khóc than và dùng sức
lực bóp cổ mình. Mộng mị như vậy khiến người giết người quá sợ hãi nên thức giấc
không dám ngủ lại, đêm nào cũng nằm mơ toàn là những cơn ác mộng.
Khi giết người, hình ảnh kẻ bị giết dường như cứ theo
sát một bên, nhìn đâu cũng thấy máu và những vết chém. Hình ảnh người chết luôn
luôn ám ảnh họ như vậy. Cho nên người giết người đâu có hạnh phúc gì? Đâu có sự
an vui gì? Đâu có sự sống an ổn được, phải không quý vị? Khi giết người lúc nào
cũng sợ công an, hễ thấy chính quyền đi đâu hay đến nhà đều lo lắng và sợ hãi.
Ban đêm nghe tiếng xột xoạt tưởng chừng như ai theo dõi mình, như đang thấy những
hành động hung dữ, ác độc giết người của mình.
Khi giết người tâm hồn rất sợ mọi người, cho nên thường
bộc lộ lối sống khác thường như: Không muốn tiếp ai, thường đóng cửa im lìm làm
giống như đi đâu, v.v.. Cách thức sống có nhiều sự thay đổi như vậy đó cách thức
sống trong đau khổ. Nhờ thay đổi sự sống như vậy khiến người chuyên nghiệp truy
tìm thủ phạm dễ phát hiện. Vì thế tội giết người sớm muộn gì công an cũng truy
tìm đưa tội phạm ra ánh sáng.
--o0o--
13-
“Trong đám tang ông B, thân nhân
hàng xóm đều tỏ vẻ thương xót, duy chỉ có một người vẫn ráo nước mắt và luôn có
nhiều biểu hiện bất thường, đó là ông Nguyễn Văn M, anh ruột nạn nhân. Được biết
nơi phát hiện xác nạn nhân chỉ cách nhà ông M chừng 100 mét, nhưng ông ta vẫn dửng
dưng, bàng quan như không có chuyện gì xảy ra”. Câu này dạy THIẾU
ĐỨC HIẾU SINH Ý HÀNH.
Trong đám tang mọi người đi dự đám ai nấy cũng đều tỏ
ra thương xót, chỉ có người anh ruột, ông M thì dửng dưng như người bàng quan
không liên can gì cả.
Như vậy rõ ràng lòng tham đã đánh mất tình thương yêu
của con người; lòng tham lam của con người đã biến ông M thành người thù hận đứa
em của mình. Ôm hận trong lòng giết chết
đứa em ruột của mình mà lòng còn chưa nguôi cơn giận hờn. Ông B này có lẽ cũng
không phải là con người hiền lương, dám bỏ con đi biền biệt như vậy cũng không
phải là tay vừa. Cho nên mới trở về với mục đích đòi chia đất hương hỏa, khiến
ông M căm tức. Vì bấy lâu nay ai chăm giữ mới còn được như vậy, bây giờ mới về
mà đòi chia đất thật là thằng em tham lam chẳng ra gì.
Ông M không giả vờ để đánh lạc hướng điều tra của công
an như những kẻ giết người khác.
Lòng căm tức của ông để lộ ra rất rõ ràng: “Dửng dưng, bàng quan”. Từ lòng tham
chuyển thành lòng sân hận, biến ông M trở thành người hung dữ giết người. Thấy
gương hung ác này chúng ta hãy soi lại mình để nỗ lực sống với đức ly tham thì
cuộc đời mới thanh thản, an lạc và vô sự; thì cuộc đời mới có được sự bình an
yên ổn.
Đúng vậy, của cải tài sản vàng bạc ruộng vườn là rắn độc
nó sẽ giết chết mọi người và giết chết cả dòng họ anh em ruột thịt nữa. Người
có trí hiểu biết họ đều buông xuống sạch. Hình ảnh của đức Phật ngày xưa, Ngài
buông bỏ ngai vàng của báu, vợ đẹp con xinh không hề tiếc rẻ một chút xíu nào cả,
vì Ngài biết nó là rắn độc. Ngài buông xuống như ném bỏ đôi giày rách. Ngài đã
hiểu cung vàng điện ngọc vợ đẹp con xinh là rắn độc. Lịch sử đã chứng minh điều
này: Biết bao nhiêu triều đại anh em tranh giành ngôi báu mà giết hại lẫn nhau
không gớm tay...
Gương hạnh đức Phật buông xả rất tuyệt vời, thế gian
này ít ai làm được. Từ một hoàng tử sắp lên làm vua mà Ngài từ bỏ hết để trở
thành người ăn xin nuôi thân sống qua ngày. Bởi vậy từ kinh nghiệm bản thân nên
Ngài dạy chúng ta đức ly tham. Ai sống với đức ly tham thì cuộc đời sẽ được
bình an yên ổn.
--o0o--
14-
“Thời gian trước và sau khi phát
hiện xác ông B, Nguyễn Văn M đã án binh bất động trong nhà, cửa nẻo luôn được
khóa chặt. Chính vì thế Nguyễn Văn M là đối tượng có nhiều nghi vấn liên quan đến
vụ án dã man trên”. Câu
này dạy NGHIỆP BÁO NHÂN QUẢ THÂN HÀNH.
Luật nhân quả là một đạo luật rất công minh. Ai làm điều
ác dù cố ý che dấu như thế nào thì cũng không sao che dấu được, càng che dấu lại
càng có những hành động bộc lộ tội ác của mình, khiến cho mọi người nhìn vào là
biết ngay kẻ gây ra án mạng.
Hành động của ông M án binh bất động trong nhà, cửa nẻo
luôn khóa chặt, đó là một hành động tố cáo ông M là thủ phạm, người gây ra án mạng.
Luật nhân quả là luật của tòa án lương tâm của mỗi người,
cho nên tự nó làm ra những hành động để tố cáo tội ác, để mọi người phát giác
ra kẻ giết người dễ dàng. Nhờ đó nhân nào phải trả quả nấy, sớm muộn gì kẻ làm
ác cũng sa lưới pháp luật.
Đúng là đạo Phật ra đời đã vạch cho chúng ta thấy rất
rõ qui luật của nhân quả, nó không hề bỏ sót một lỗi lầm nào, dù lỗi lầm đó rất
nhỏ nhặt. Cho nên những kẻ làm ác luôn luôn thọ quả khổ đau, mặc dù luật pháp
thế gian chưa bắt tội, nhưng không ai trốn thoát luật nhân quả này được, nó
luôn luôn xử tội mọi người khi mọi người đang làm những điều ác. Mọi người đang
bị luật nhân quả xử phạt những có mấy ai thấy biết được đâu.
Ví dụ: Kẻ giết người thì luật pháp thế gian sẽ kêu án
tù chung thân hay tử hình, còn kẻ giết một con bò hay một con chó hoặc giết một
con cá thì luật pháp thế gian không bắt tội lỗi gì cả, nhưng luật nhân quả
không tha thứ cho một ai. Người giết một con cá tội cũng bằng giết một người đối
với luật nhân quả là vậy. Giết một con cá thì nghiệp tái sinh sẽ là con cá. Con
cá sẽ bị người khác giết lại như khi mình đã giết con cá vậy.
Cho nên luật nhân quả xử phạt công minh, hễ kẻ nào
tham lam thì nghèo khó thiếu trước hụt sau, hoặc những tai họa khiến cho tiền bạc
tham lam trộm cướp tiêu ra như mây khói. Còn kẻ nào giết loài vật ăn thịt thì
cơ thể bệnh đau, nay bệnh này mai bệnh khác, còn giết người thì có pháp luật
Nhà nước trừng trị tù tội hay tử hình. Cho nên những kẻ làm ác thì luôn luôn phải
chịu quả khổ đau mà người đời không biết gọi là luật trời.
--o0o--
15-
“Sau khi tổng hợp nhiều nguồn tin
và tài liệu, cơ quan điều tra khẳng định: Nguyễn Văn M chính là hung thủ đã giết
ông Nguyễn Văn B. Tuy nhiên, quá trình bắt giữ tiến hành rất khó khăn, bởi Nguyễn
Văn M đã tử thủ trong nhà và luôn cầm thuổng nhọn để hăm dọa lực lượng làm nhiệm
vụ. Nhưng bằng mưu trí và các biện pháp nghiệp vụ, lực lượng trinh sát đã khống
chế được Nguyễn Văn M. Khám xét nhà M, cơ quan Công An thu giữ được số hung khí
và tang vật liên quan đến vụ án. Qua đấu tranh khai thác, bước đầu Nguyễn Văn M
đã khai nhận hành vi giết em ruột mình”. Câu này dạy THIẾU
ĐỨC THÔNG MINH HIẾU SINH Ý HÀNH.
Đứng trước một lực lượng công an đã điều tra vụ án ra
sự thật, mà ông M dám tử thủ, chống đối pháp luật thì thật là một người không
trí tuệ, kém trí thông minh, lấy trứng chọi đá thì quá ngu si. Chúng ta đọc lại
đoạn này: “Bởi Nguyễn Văn M đã tử thủ
trong nhà và luôn cầm thuổng nhọn để hăm dọa lực lượng làm nhiệm vụ”. Đó thật
là người vô minh không chỗ nói. Người có tội biết ra đầu thú nói rõ tội mình
thì tội còn nhẹ, còn được ân giảm.
Một người đã lỡ gây ra tội ác giết người thì nên ra đầu
thú tại cơ quan an ninh để khai rõ những điều mình làm sai. Trong cuộc đời có
lúc vì quá tức giận, không còn trí sáng suốt, gây ra tội ác thì nên đến cơ quan
an ninh, khai báo rõ ràng, để cơ quan này khỏi phải cực nhọc vất vả điều tra.
Hành động như vậy cũng là hành động đạo đức biết ăn năn hối cải. Ngược lại,
tránh né trốn chạy và chống lại người thi hành pháp luật, đó là tạo thêm tội lỗi
nữa.
Ông Nguyễn Văn M đã không ra đầu thú mà còn tử thủ chống
lại người thi hành pháp luật. Tội giết người là tội rất nặng mà tội chống lại
pháp luật còn nặng hơn. Tại sao vậy?
Pháp luật là khuôn phép giữ gìn cương thường đạo đức
con người để xã hội có trật tự an ninh. Người chống lại pháp luật là người chống
lại đạo đức.
Ví dụ: Người không chấp hành luật lệ giao thông là người
chống lại đạo đức giao thông. Người có đạo đức giao thông là người chấp hành luật
lệ giao thông nghiêm chỉnh.
Cá nhân ông M bé nhỏ như hạt bụi mà chống lại cơn bão
tố thì chỉ là một người liều mạng, một người ngu si, không biết lượng sức mình,
tạo thêm tội lỗi nữa. Khi tòa kêu án thì bản án của họ phải ghi rõ hai tội: Tội
giết người và tội chống lại pháp luật Nhà nước.
Dù như thế nào, tội ông M rất nặng, đó là tội giết người,
nhưng lại nặng hơn là tội giết em ruột của mình.
Những tội lỗi trên đây mà con người phạm phải đều do
nguyên nhân là lòng tham lam của con người.
Nguyên nhân lòng tham lam này là gốc từ vô minh. Vô
minh là không hiểu biết, thường lầm chấp cho rằng các pháp là thường hằng, bất
biến, là của mình, là mình, là bản ngã của mình. Sự hiểu biết lầm chấp sai lệnh
như vậy mới sinh ra bảo thủ trộm cắp cướp của giết người.
Sự hiểu biết sai lầm là các pháp có thật, nên từ đó
lòng tham lam các pháp mới có. Họ đâu biết rằng: Các pháp đều do các duyên hợp
tạo thành. Cho nên các pháp thường xảy ra bốn trạng thái liên tục, nếu chúng ta
lưu ý thì thấy rất rõ: “thành, hoại, diệt,
không”. Một người đã hiểu rõ các pháp vô thường, không có pháp nào là ta,
là của ta, là bản ngã của ta thì buông xả rất dễ dàng và sống đời đạo đức không
mấy khó khăn. Nếu ai cũng thấu hiểu được như vậy thì thế gian này đâu còn đau
khổ nữa; đâu còn có những người tạo nên tội trộm cắp, cướp giật của cải, giết
người nữa.
--o0o--
16-
“Mặc dù đã che dấu hành vi phạm tội
một cách tinh vi, nhưng tội ác dã man cuối cùng cũng đã bị lôi ra ánh sáng.
Hành vi phạm tội của M đặc biệt nghiêm trọng, không còn tính người, ra tay giết
hại đứa em ruột máu mủ của mình chỉ vì lợi ích cá nhân. Mới đây Nguyễn Văn M đã
phải ra trước vành móng ngựa để lãnh nguyên bản án cho những hành động của
mình”. Câu này dạy ĐẠO ĐỨC NHÂN QUẢ NGHIỆP BÁO.
“Ác
lai ác báo”, làm ác phải đền tội ác, giết người phải lãnh
án tử hình, đó là luật nhân quả: “Nhân
nào quả nấy”.
Luật nhân quả rất công minh, một người làm tội ác
không bao giờ tránh né và trốn đâu cho khỏi, dù bay lên trời hay chui xuống đất
cũng không thoát khỏi.
Ông M chết đi cũng như bao nhiêu người khác chết,
nhưng những người khác chết không để tiếng xấu muôn đời, còn ông M chết đi để
tiếng xấu muôn đời: “Tranh giành đất đai
giết em mình chết”.
Ông M chết là đáng tội, nhưng những nỗi đau của những
người thân trong gia đình, biết chừng nào những nỗi đau ấy xóa được. Làm sao
xóa được. Phải không quý vị?
Đáng thương nhất cho các cháu khi tiếp xúc với mọi người,
nếu bình thường không có việc gì xảy ra thì thôi, mà có việc gì chống đối xảy
ra thì người ta sẽ dùng câu: “Cha mầy là
đồ giết người”. Một hậu quả cay nghiệt cho đời này đến đời khác.
Chúng ta đã sinh ra làm người, cần phải lưu ý và cân
nhắc cho kỹ, những hành động tham lam trộm cắp, cướp của giết người là những
hành động hung ác, là những hành động xấu xa, đê tiện, hèn hạ, v.v.. Làm người
chúng ta đừng để xảy ra những điều đáng tiếc như vậy.
Được sinh ra làm người, được giáo dục trong nền giáo dục
đạo đức làm người, đạo đức nhân bản - nhân quả không làm khổ mình, khổ người và
khổ cả hai thì hạnh phúc biết bao.
Ước mong sao những nhà lãnh đạo đất nước: Vì lợi ích của
nhân dân; vì trật tự an ninh của xã hội; vì sự phồn vinh thịnh vượng của đất nước
và vì sự hòa bình chung của cả thế giới mà những nhà lãnh đạo đất nước hãy sớm
đưa nền đạo đức nhân bản - nhân quả vào chương trình giáo dục của Bộ giáo dục
quốc gia và của Bộ văn hóa thông tin thì tệ nạn xã hội may ra sẽ chấm dứt.
BÀI HỌC THỨ BẢY:
RÈN NHÂN CÁCH
ĐẠO ĐỨC LY THAM Ý HÀNH, THÂN HÀNH, KHẨU HÀNH:
Khi
tòa tuyên án, bà cụ già run rẩy, gắng gượng đứng lên, nhưng dường như không đủ
sức chịu đựng nên đã ngồi phệt xuống nền gạch. Phiên tòa kết thúc với bản án
tuyên hủy án sơ thẩm vì sai thủ tục tố tụng. Bà ngồi mếu máo, lập bập hỏi luật
sư: “Ông tòa tuyên án như vậy là tôi thua
hả luật sư ...?”. Gương mặt bà cụ nhăn nhúm, đau đớn hằn sâu thêm những vết
chân chim ngang dọc của thời gian. Dù được luật sư giải thích cặn kẽ việc thua
thắng chưa được tòa án quyết, nhưng do thủ tục sai nên phải hủy để xử lại từ đầu
thì bà vẫn thẫn thờ không sao hiểu được.
Nội dung chính của vụ kiện xuất phát từ tranh chấp đất,
mà bên tranh chấp và bị tranh chấp là hai mẹ con. Năm 1985, bà Năm chia đất cho
các con. Những miếng đất gò, đất rẫy khô cằn chỉ thích hợp trồng điều chẳng thể
níu chân các con ở lại lập nghiệp. Chúng đã bán lại cho anh Thầy, người con
trai cả của bà với giá 1,2 chỉ vàng. Phần đất vuông rất đẹp, khoảng một mẫu bà
Năm còn giữ lại và kêu vợ chồng anh Thầy về xây nhà cùng sống chung. Vợ chồng
Thầy tiếp tục khai hoang đất đai và mua thêm đất, đến lúc được khoảng vài mẫu
thì đăng ký để cấp giấy tờ. Chính vì không có sự rạch ròi giữa phần đất nào được
chia, phần đất nào mua thêm, vô tình anh Thầy này đã tạo nên những tranh chấp
không đáng có về sau này.
Mở đường, khu đất trở nên có giá trị khi có mặt tiền rộng
hơn trăm mét ngang. Khi người ta còn nghèo, còn lao động cật lực, khó khăn thì
dường như ít tính toán hơn và bao dung hơn. Còn khi lợi ích vật chất buộc người
ta tính toán thì sự ích kỷ, tham lam biến con người trở nên khác đi.
Đứng trước tòa, người con trai và cô con dâu phủ nhận
mảnh đất không phải là bà cụ cho, họ đã chăm lo nuôi dưỡng Bà cụ, tiêu tốn và
chạy chữa thuốc thang khi bà bệnh tật, vậy bà còn đòi gì nữa? Bà cụ nấc nghẹn,
đôi vai cứ rung bần bật. Vị chủ tọa cắt ngang lời vợ chồng Thầy bằng những lời
khá gay gắt: “Ai đã nuôi anh khôn lớn để
anh tính tháng kể ngày; làm mẹ của anh..?”. Và theo lẽ suy đoán của những
người dự khán phiên tòa, người mẹ đòi được phần đất của mình vì điều đó hợp với
chứng lý và cả tình người. Nhưng chỉ vì một sơ xuất trong thủ tục tố tụng, nên
bản án phúc thẩm phải tuyên hủy để xử lại từ đầu.
Tòa tan, bà cụ ngồi thẩn thờ bên hành lang tòa án, đôi
tay gầy guộc cong quắt như nhành cây lần mãi trong túi áo, giở mấy lớp ni-lon
gói kỹ càng lấy ra một tấm ảnh ố vàng. Trong ảnh là một người phụ nữ trẻ bên cạnh
sáu đứa con quấn quít mẹ. Tấm ảnh của hơn 50 năm về trước đã ố vàng theo thời
gian, hay vì sự thay đổi của lòng người?
Người con trai đi ngang qua tíu tít dẫn vợ về giả vờ
như không thấy mẹ già đang ngồi thẫn thờ với nỗi đau. Dẫu biết những khúc mắc của
cuộc sống không thể kể hết được, nhưng là mẹ con sao tuyệt tình đến vậy. Phán
quyết của tòa án chỉ có thể phân định đúng sai về chứng lý, cân nhắc lợi ích của
các bên, nhưng luật là luật, đâu thể hàn gắn tình cảm con người. Luật sư của
anh con trai dường như bất nhẫn trước cảnh tình bà cụ. Anh dìu bà cụ đứng dậy
ra về. Thân già sáu bảy đứa con, nhưng đến những năm cuối đời, thì hữu sự chẳng
có đứa nào lo cho bà cụ vì ganh tỵ nhau, giành giật với nhau phần của cải hưởng
nhiều, hưởng ít. Không biết họ có nghĩ tuổi già của họ có lúc sẽ nặng lòng hối
tiếc về cách hành xử hôm nay.
Lòng trĩu nặng hình ảnh bà cụ già, tôi bần thần trước
sân pháp đình, nơi chứng kiến biết bao buồn đau, thống khổ của những phận người.
Cùng tâm trạng day dứt, người luật sư chia sẻ nỗi đồng cảm về tình cảnh bà cụ
già. Anh hoàn thành trách nhiệm với thân chủ của mình, nhưng lương tâm của một
con người khiến anh sẽ thuyết phục để hai mẹ con họ hòa giải với nhau. Miếng đất
có thể nhỏ đi một chút, nhưng tình cảm sẽ vẹn toàn, sẽ nhân lên thì tốt đẹp biết
bao. Và khi chúng tôi nhìn về ô cửa sổ phòng thẩm phán chủ toạ, cũng bắt gặp một
ánh mắt đăm chiêu đang dõi theo bóng bà cụ liêu xiêu trong nắng chiều. Lòng tôi
vẫn mong mẹ con họ sẽ hoà giải, sẽ vui vẻ đoàn tụ bên nhau, để tháng ngày còn lại
của bà cụ được sống thanh thản bên con cháu. Mong lắm thay!
(Anh Thư
Báo Tuổi Trẻ)
--o0o--
1-
“Nội
dung chính của vụ kiện xuất phát từ tranh chấp đất, mà bên tranh chấp và bị
tranh chấp là hai mẹ con”.
Câu này dạy đạo đức gì?
2-
“Năm 1985, bà Năm chia đất cho
các con. Những miếng đất gò, đất rẫy khô cằn chỉ thích hợp trồng điều chẳng thể
níu chân các con ở lại lập nghiệp. Chúng đã bán lại cho anh Thầy, người con
trai cả của bà với giá 1,2 chỉ vàng. Phần đất vuông rất đẹp, khoảng một mẫu bà
Năm còn giữ lại và kêu vợ chồng anh Thầy về xây nhà cùng sống chung. Vợ chồng
Thầy tiếp tục khai hoang đất đai và mua thêm đất, đến lúc được khoảng vài mẫu
thì đăng ký để cấp giấy tờ. Chính vì không có sự rạch ròi giữa phần đất nào được
chia, phần đất nào mua thêm, vô tình anh Thầy này đã tạo nên những tranh chấp
không đáng có về sau này”.
Câu này dạy đạo đức gì?
3-
“Mở đường, khu đất trở nên có
giá trị khi có mặt tiền rộng hơn trăm mét ngang. Khi người ta còn nghèo, còn
lao động cật lực, khó khăn thì dường như ít tính toán hơn và bao dung hơn. Còn
khi lợi ích vật chất buộc người ta tính toán thì sự ích kỷ, tham lam biến con
người trở nên khác đi”.
Câu này dạy đạo đức gì?
4-
“Đứng trước tòa, người con trai
và cô con dâu phủ nhận mảnh đất không phải là bà cụ cho, họ đã chăm lo nuôi dưỡng
bà cụ, tiêu tốn và chạy chữa thuốc thang khi bà bệnh tật, vậy bà còn đòi gì nữa?
Bà cụ nấc nghẹn, đôi vai cứ rung bần bật”. Câu này dạy đạo đức gì?
5-
“Vị chủ tọa cắt ngang lời vợ chồng
Thầy bằng những lời khá gay gắt: “Ai đã nuôi anh khôn lớn để anh tính tháng kể
ngày; làm mẹ của anh..?”. Và theo lẽ suy đoán của những người dự khán phiên
tòa, người mẹ đòi được phần đất của mình vì điều đó hợp với chứng lý và cả tình
người. Nhưng chỉ vì một sơ xuất trong thủ tục tố tụng, nên bản án phúc thẩm phải
tuyên hủy để xử lại từ đầu”.
Câu này dạy đạo đức gì?
6-
“Tòa tan, bà cụ ngồi thẩn thờ
bên hành lang tòa án, đôi tay gầy guộc cong quắt như nhành cây lần mãi trong
túi áo, giở mấy lớp ni-lon gói kỹ càng lấy ra một tấm ảnh ố vàng. Trong ảnh là
một người phụ nữ trẻ bên cạnh sáu đứa con quấn quít mẹ. Tấm ảnh của hơn 50 năm
về trước đã ố vàng theo thời gian, hay vì sự thay đổi của lòng người?”. Câu này dạy đạo đức gì?
7-
“Người con trai đi ngang qua tíu
tít dẫn vợ về giả vờ như không thấy mẹ già đang ngồi thẫn thờ với nỗi đau. Dẫu
biết những khúc mắc của cuộc sống không thể kể hết được, nhưng là mẹ con sao
tuyệt tình đến vậy”.
Câu này dạy đạo đức gì?
8-
“Phán quyết của tòa án chỉ có thể
phân định đúng sai về chứng lý, cân nhắc lợi ích của các bên, nhưng luật là luật,
đâu thể hàn gắn tình cảm con người”. Câu này dạy đạo
đức gì?
9-
“Luật sư của anh con trai dường
như bất nhẫn trước cảnh tình bà cụ. Anh dìu bà cụ đứng dậy ra về. Thân già sáu
bảy đứa con, nhưng đến những năm cuối đời, thì hữu sự chẳng có đứa nào lo cho
bà cụ vì ganh tỵ nhau, giành giật với nhau phần của cải hưởng nhiều, hưởng ít”. Câu này dạy đạo đức gì?
10-
“Không biết họ có nghĩ tuổi già
của họ có lúc sẽ nặng lòng hối tiếc về cách hành xử hôm nay”. Câu này dạy đạo đức gì?
11-
“Lòng trĩu nặng hình ảnh bà cụ
già, tôi bần thần trước sân pháp đình, nơi chứng kiến biết bao buồn đau, thống
khổ của những phận người. Cùng tâm trạng day dứt, người luật sư chia sẻ nỗi đồng
cảm về tình cảnh bà cụ già. Anh hoàn thành trách nhiệm với thân chủ của mình,
nhưng lương tâm của một con người khiến anh sẽ thuyết phục để hai mẹ con họ hòa
giải với nhau. Miếng đất có thể nhỏ đi một chút, nhưng tình cảm sẽ vẹn toàn, sẽ
nhân lên thì tốt đẹp biết bao”. Câu này dạy đạo đức gì?
12-
“Và khi chúng tôi nhìn về ô cửa
sổ phòng thẩm phán chủ toạ, cũng bắt gặp một ánh mắt đăm chiêu đang dõi theo
bóng bà cụ liêu xiêu trong nắng chiều. Lòng tôi vẫn mong mẹ con họ sẽ hoà giải,
sẽ vui vẻ đoàn tụ bên nhau, để tháng ngày còn lại của bà cụ được sống thanh thản
bên con cháu. Mong lắm thay!”.
Câu này dạy đạo đức gì?
--o0o--
1-
“Nội dung chính của vụ kiện xuất
phát từ tranh chấp đất, mà bên tranh chấp và bị tranh chấp là hai mẹ con”. Câu này dạy THIẾU ĐỨC HIẾU THẢO
HIẾU SINH THÂN HÀNH.
Tất cả mọi sự tranh chấp thưa kiện với nhau trong cuộc
đời này đều xuất phát từ lòng tham lam. Muốn diệt trừ được lòng tham lam thì phải
học đạo đức ly tham.
Lòng tham lam là một ác pháp ghê gớm, nó thường sai
khiến mọi người làm những điều bất trung, bất nghĩa, bất hiếu. Câu chuyện trên
đây do lòng tham lam mà mẹ con kiện tụng tranh giành đất đai với nhau thật là
đau lòng. Lòng tham lam đã đánh mất đức hiếu thảo của con người.
Lòng tham lam nó còn sai khiến và biến con người trở
thành những kẻ gian tham, trộm cắp, cướp giật của cải tài sản và giết người. Bởi
vậy lòng tham ghê gớm thật, từ con người hiền lương, chân chất, thật thà không
tham lam, nó biến dần con người trở thành những người gian ác, hung dữ, xấu xa,
hẹp hòi, ti tiện, ích kỷ, nhỏ mọn, lừa đảo, lường gạt, gian xảo, móc túi, trộm
cắp, cướp giật, ăn lo, hối lộ.
Lòng tham có nhiều hành động rất vi tế, nếu một người
có quyết tâm muốn diệt trừ lòng tham lam mà không chịu khó tập luyện tĩnh giác
từng hành động thân, miệng, ý của chính mình thì rất khó mà hàng phục và diệt
trừ được nó.
-
Điều thứ nhất: Chúng ta nên lưu ý từng hành động ăn uống.
Chính ăn uống là một đối tượng sinh ra lòng tham lam nhiều nhất, bởi chúng thể
hiện lòng tham từ nơi đây rất rõ. Nếu nó còn thích ăn một món ăn ngon nào để
thích khẩu, là nó đã có lòng tham ở nơi đó. Nếu nó còn thích ăn món này ngon,
chê món kia ăn dở; ăn món này bổ, chê món kia không bổ, đó là chúng ta phải biết
chính là lòng tham lam xuất hiện.
-
Điều thứ hai: Chúng ta nên lưu ý từng hành động thân tâm hằng
ngày, nếu thấy thân tâm còn lười biếng thích ngủ, thích nằm dật dờ hay thường bị
hôn trầm, thùy miên, là chúng ta biết ngay mình còn tâm tham lam chưa hết. Nói
cho dễ hiểu và rõ ràng: Người nào còn thích ngủ là người đó tâm còn lòng tham
lam.
-
Điều thứ ba: Nếu chúng ta còn thích vui chơi đi nói chuyện
này, chuyện khác, thường tranh luận hơn thua với người này, người kia là chúng
ta biết ngay mình còn lòng tham lam.