VĂN HÓA PHẬT GIÁO
ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT
TẬP
VI
Sách này chỉ
kính biếu, không bán!
Qúy bạn đọc có
thể thỉnh sách tại TU VIỆN CHƠN NHƯ.
Ấn bản điện tử
được đăng tải tại trang web:
http://www.thuvienthaythonglac.net
BẬC
THÁNH A LA HÁN
“Nếu không có đạo
đức, con người chỉ là một con thú vật thông minh, hung ác, gian xảo, lừa đảo nhất
trong các loài động vật”.
(Lời của Tu viện Chơn Như)
Tu tập định vô lậu có ba việc cần phải lưu ý
Các nhà học giả dạy nhập sơ thiền
Trong tứ thiền ngưng sổ tức đạt Không định
Mười hơi thở đếm không lộn là ý có định
Nhờ theo dõi hơi thở mà được định
Sáu thức gom lại sẽ nhập định gì?
Con người do ba hành động thân miệng ý sanh ra
Một người mù dẫn một đám người mù
Chứng đắc một ít dạy người được không?
Chỉ cần có tâm tàm quý là tu chứng đạo
Mọi người đều là tu sĩ đi xin ăn thì thế gian
này sẽ ra sao?
Làm sao phân biệt được tu sĩ giả hay thật trong
Phật giáo
Thuyết pháp 45 năm và 49 năm, năm nào
đúng?
Kinh sách Nguyên thủy và Đại thừa, kinh nào
đáng tin cậy
Kinh sách Đại thừa có phải là chánh pháp không?
Sự sai biệt giữa Phật giáo và Bà la môn
Thâm ý của Bà la môn với Phật giáo
Lời tựa giới thiệu kinh pháp cú của Hòa thượng
Minh Châu
Xác định của đức phật về “ý thức” của con người
có tầm quan trọng nhất trong đạo Phật
Lời xác định thứ hai của đức Phật
Người học nhiều không bằng người tu tập
Khi nói, viết phải bình tâm suy nghĩ cho kỹ
Từ
ngày có chương trình vấn đạo đến nay, những người có đủ duyên được đọc sách Đường
Về Xứ Phật, lần lượt họ đều hiểu thông đường lối tu hành của đạo Phật, và cũng
bắt đầu thấy được những điều sai trái trong Phật giáo rất nhiều hiện nay,
nguyên do là những ảnh hưởng tập quán dân gian và các pháp môn của ngoại đạo
trà trộn làm cho chánh pháp của Phật biến dạng, mang đầy tính chất mê tín, dị
đoan, lạc hậu v.v..
Phần
đông số tín đồ Phật giáo đang lầm lạc quay cuồng trong các pháp môn của kinh
sách phát triển và Thiền Tông Trung Hoa, cho đó là pháp môn của Phật giáo,
nhưng nào ngờ chương trình vấn đạo đã và sẽ lần lượt làm sáng tỏ, pháp nào của
Phật là của Phật, pháp nào của ngoại đạo là của ngoại đạo (Bà La Môn). Tà đạo
không thể ẩn núp trong Phật giáo, chuyên làm việc lừa đảo và lường gạt tín đồ
Phật giáo như vậy được. Đường Về Xứ Phật sẽ chỉ thẳng và vạch rõ giúp các bạn
không còn hiểu lệch lạc và sai lầm nữa.
Đã gần
hai mươi lăm thế kỷ nay con người đã bị giáo pháp này lừa gạt quá nhiều, đến giờ
này mà mọi người còn đang sống trong giấc mơ của “Đại Thừa và Tối Thượng Thừa”
là của Phật giáo ư!
Một
giấc mơ tuyệt vời, đưa con người vào cõi mộng của thế giới siêu hình, “thường hằng,
thường biết, thường nghe, thường thấy, bất biến, hạnh phúc, an lạc (thường, lạc,
ngã, tịnh)”.
Đại
Thừa đã xây dựng một cõi “Cực Lạc Tây Phương” để thỏa mãn mọi nhu cầu dục vọng
của con người thế gian, muốn chi được nấy, do sự diễn tả cảnh giới Tây Phương Cực
Lạc quá đẹp đẽ như trong kinh Di Đà. Một cảnh giới lý tưởng, mà ai nghe đến
cũng đều phải ham mê thích thú.
Vì
thế, nên hiện giờ có nhiều người do tâm tham đắm cảnh giới Cực Lạc, sống đầy đủ
và sung sướng muốn chi có nấy, nên xúm nhau niệm Phật Di Đà cầu vãng sanh Tây
Phương.
Vả lại,
các Tổ thường ca ngợi pháp môn Tịnh Độ rất dễ tu, phù hợp với căn cơ con người
thời đại hiện nay, nghe những lời đường mật cám dỗ này ai mà không ham thích.
Phải không các bạn?
Vấn
đạo sẽ lần lượt vạch mặt, vạch tên từng pháp môn của ngoại đạo, để cho tín đồ
Phật giáo, thấy được bộ mặt thật thâm độc của họ đã và đang cố tình dìm và giết
Phật giáo, nhất là đạo đức của đạo Phật. Hiện giờ người ta chẳng biết đạo đức của
Phật giáo cụ thể như thế nào? Hỏi đến ai cũng chung chung chẳng rõ, dù bậc đó
là những bậc Hòa Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức v.v..
Kinh
sách phát triển đã biến đạo đức của Phật giáo thành một thứ đạo đức “mê tín”, một
thứ đạo đức thụ động, phi đạo đức, khiến cho Phật giáo không có đạo đức làm người,
chỉ biết tu hành theo đạo Phật là làm việc từ thiện, cúng bái, cầu khẩn, van
xin, ngồi thiền, nhập định, niệm Phật, niệm chú, bắt ấn, tụng kinh, tụng kệ,
sám hối, v.v.. Với việc làm này, mục đích sẽ được giải thoát và cuối cùng thành
Phật và ít nhất cũng được dự vào hàng Thánh nhân.
Hành
động từ thiện của giáo phái phát triển là Tứ Nhiếp Pháp, dùng để khuyến dụ người
theo đạo mình, hơn là làm việc từ thiện. Với những lời lừa đảo “Bố thí, cúng dường
sẽ được phước báo vô lượng” như: cúng dường xây cất chùa, tháp, đúc chuông, đúc
tượng và cúng dường trai tăng tứ sự v.v.. sẽ được phước báo vô lượng vô biên.
Trong
khi đạo Phật ra đời nhằm đem lại cho loài người một đạo đức giải thoát, mang lại
cho cá nhân mỗi người được hạnh phúc, an vui, thanh thản, bình đẳng, sống hoà hợp,
biết tha thứ và thương yêu nhau, biết nhẫn nhục, tùy thuận, và đùm bọc lẫn
nhau, chứ đâu có lường gạt người như thế.
Vấn
đạo sẽ làm sáng tỏ lại pháp môn của đạo Phật và dựng lại nền đạo đức không làm
khổ mình, khổ người, mà từ hai mươi lăm thế kỷ nay không còn ai nhắc nhở và biết
đến.
Vấn
đạo sẽ giúp cho quý vị giữ gìn giới luật nghiêm túc, bằng cách hướng dẫn các
pháp tu tập cụ thể, thiết thực để quý vị thực hành sống một đời sống đạo đức, đạo
hạnh, có một cuộc sống không làm khổ mình, khổ người, an vui, thanh thản và vô
sự.
Vấn
đạo giúp cho quý vị suy nghĩ, lời nói và hành động luôn luôn buông xả, cởi mở,
ôn tồn, nhã nhặn, từ tốn, êm dịu để mang lại cho mình một tâm hồn an vui, thanh
thản, và mang lại cho người một tâm hồn khoan dung, thương yêu và đầy lòng tha
thứ.
Vấn đạo
giúp cho các bạn biết rõ cách thức ngăn ác pháp và diệt ác pháp, luôn sống
trong thiện pháp, an trú thiện pháp, thường sống tu tập “Tứ Chánh Cần”.
Vấn
đạo còn giúp ta biết cách tu tập “Tứ Niệm Xứ” rất cụ thể, rõ ràng, để khắc phục
tâm tham ưu ở đời bằng phương pháp “Quán thân trên thân”.
Vấn
đạo giúp ta rõ thấu cách thức tu tập rèn luyện đạo lực, để điều khiển nhập bốn
định (Tứ Thánh Định), làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi.
Vấn
đạo còn giúp chúng ta biết rõ cách thức tập luyện pháp hướng tâm để biết cách
thành tựu “Tứ Như Ý Túc và Tam Minh”.
Vì vấn
đạo có lợi ích như vậy, chúng ta hãy đọc và nghiên cứu, cẩn thận, kỹ lưỡng từng
danh từ, ngôn ngữ, để chúng ta hiểu rất rõ và nắm vững cách thức tu tập, không
còn bị ai lừa đảo được, do đó tu hành mới đạt được như sở nguyện.
Giáo
lý đạo Phật khó, chỉ vì ta chưa thấu triệt và từ lâu đời (1242 năm) đã bị giáo
lý ngoại đạo che khuất, bằng cách mạo danh là Phật thuyết.
Đạo
Phật khó, chỉ vì ta chưa có nhiệt tâm, thiếu lòng tin tưởng nơi Phật, Pháp,
Tăng, vì thời nay Phật, Pháp, Tăng đều giả hiệu, khiến Thầy Tổ chúng ta tu mãi
mà chẳng ra gì, đến khi chết phải chịu quá nhiều bệnh tật nghiệt ngã, khổ đau.
Đạo
Phật khó, chỉ vì ta chưa biết đời sống con người khổ, khổ như thật, nên còn đắm
mê những vật chất dục lạc thế gian, chưa chịu buông xả và dứt bỏ.
Đạo
Phật sống khó, chỉ vì tâm chúng ta chưa nhàm chán các pháp dục lạc thế gian,
mãi còn chìm đắm trong đó.
Đạo
Phật khó, chỉ vì chúng ta bị lừa đảo bằng các pháp môn của Bà La Môn giả hiệu
pháp môn của Phật, nên chúng ta tu sai pháp, lạc pháp, không có kết quả cụ thể,
phần nhiều là lý thuyết suông.
Đạo
Phật khó, chỉ vì chúng ta thiếu một thiện hữu tri thức có kinh nghiệm tu hành
theo chánh pháp của Phật, biết rõ đường đi nước bước chơn thật, không còn sợ bị
lầm đường, lạc lối.
Đạo
Phật khó, chỉ vì từ lâu chúng ta hiểu qua giáo lý của đạo Phật, bằng kiến giải
của các nhà học giả. Do đó, vấn đạo sẽ phơi bày các pháp hành cụ thể, thực tế để
mọi người biết rõ, dứt bỏ những điều sai quấy bất thiện, biết xa lìa những sự
cám dỗ vật chất thế gian, biết ngăn chặn những pháp ác trong tâm, biết thương
yêu đùm bọc lẫn nhau đúng cách, biết tùy thuận, tha thứ những lỗi lầm của những
người khác, biết nhẫn nhục đoàn kết và xả bỏ lòng hận thù riêng tư, biết làm
vui lòng mình, vui lòng người.
Vì
thế, đọc vấn đạo quý vị đừng vội tin mà hãy suy ngẫm, càng suy ngẫm thì quý vị
mới càng thấm thía, có thấm thía quý vị mới tin sâu Phật pháp, có thấm thía quý
vị mới thấy đạo Phật ra đời là vì loài người, vì sự khổ đau của con người, vì sự
lầm chấp thế giới hữu hình và thế giới siêu hình là có thật.
Lần
lượt những tập “Đường Về Xứ Phật” sẽ đến với quý vị, tâm tình chia sẻ những nỗi
u hoài, khắc khoải trên bước đường tu tập thiền định của đạo Phật với quý vị.
Và
những tủi nhục, xấu hổ khi thấy những vị Tỳ Kheo (tu sĩ Phật giáo) ngang nhiên
phạm giới luật, xem thường giới luật, và bẻ vụn giới luật trước mặt tín đồ mà
chẳng hề có chút lòng hối hận, ăn năn. Những người không tôn giáo và những tín
đồ các tôn giáo khác sẽ phê bình cười chê ra mặt, họ dùng những lời châm biếm,
chế giễu của những người bình dân: “Thầy chùa ăn vụng cá kho, bà vải bắt được
đánh mo lên đầu” hay “Xoài cà lăm nhỏ trái mà chua, thầy tu mê gái bỏ
chùa không ai coi”. Còn rất nhiều câu ca dao, tục ngữ dân gian và các thơ
văn của các thi sĩ nổi tiếng nói về tu sĩ đạo Phật một cách châm biếm rất là
đau lòng xót dạ mà chúng tôi không thể nêu ra đây hết được.
Không
biết các bậc tôn túc Hòa Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức Tăng và Ni trong cả nước
khi phạm giới luật của Phật, quý vị có buồn lòng tự xấu hổ với những việc làm của
mình hay không?
Vừa
rồi, chúng tôi có đọc một tờ báo ở Hà Nội nói về vụ ăn cướp xe gắn máy là một
tu sĩ Phật giáo. Nếu chúng ta không đọc báo chí thì thôi mà theo dõi báo chí
thì thỉnh thoảng chúng ta đọc những tin tức về giới tu sĩ Phật giáo phạm pháp
luật nhà nước, thật là đau lòng. Đến đây xin tạm dừng hẹn gặp lại quý vị ở tập
sau.
Ngày
18-12-1998
--o0o--
Kính
gửi: Quý bạn Tăng, Ni và nam nữ cư sĩ thân mến!
Kính
thưa các bạn! Sau khi nhuận lại bộ sách Đường Về Xứ Phật tập 6 chúng tôi có bổ
sung thêm câu hỏi của những tu sĩ và cư sĩ. Vì những câu hỏi này có một giá trị
lợi ích thiết thực cho sự tu tập của các bạn. Chúng tôi sẵn sàng trả lời những
câu hỏi của những ai có quyết tâm tìm đường thoát khổ của kiếp làm người theo đúng
lộ trình của Phật giáo Nguyên Thuỷ.
Chúng
tôi cũng sẵn sàng trả lời những câu hỏi của những ai có tâm huyết muốn xây dựng
lại và làm sáng tỏ thêm nền giáo pháp chân chánh của Phật giáo Nguyên Thủy.
Chúng
tôi cũng sẵn sàng trả lời những câu hỏi của những ai muốn học hỏi đạo đức làm
người của đạo Phật, mà từ khi đức Phật nhập diệt đến nay nó đã bị chôn vùi
trong lớp giáo pháp mê tín, trừu tượng, ảo giác tưởng giải của các nhà học giả
kinh sách phát triển.
Chúng
tôi cũng sẵn sàng trả lời những câu hỏi cho những ai đang thắc mắc về giáo lý
Phật giáo dẫy đầy mâu thuẫn, dẫy đầy mê tín, dị đoan v.v..
Sau
cùng chúng tôi gửi lời thân mến nhất thăm và chúc quý bạn mạnh khoẻ, an vui để
tìm ra một lối đi chân chánh của Phật giáo, để thực hiện hoài bão ra khỏi sanh
tử luân hồi của mình.
Kính ghi,
Tu
Viện Chơn Như.
LỜI PHẬT DẠY “1- Phòng hộ sáu căn 2- Sanh y là căn bản của đau khổ 3- Giải thoát nhờ đoạn dứt sanh y”. |
CHÚ GIẢI:
1- Phòng
hộ sáu căn: Tức là giữ gìn mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý không cho dính mắc
sáu trần là: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp.
Phòng
hộ sáu căn có nghĩa là giữ gìn tâm không phóng dật, giữ gìn tâm không phóng dật
là một việc làm thiện xảo và rất khéo léo, nếu không thiện xảo và khéo léo thì
tâm dễ phóng dật.
Phòng
hộ sáu căn còn có nghĩa là sống độc cư mà đức Phật đã thường nhắc đi nhắc lại
nhiều lần và nhất là Ngài nhắc chúng ta phải sống độc cư như con tê ngưu một sừng.
Đúng
vậy chỉ sống như con tê ngưu một sừng thì tâm mới không phóng dật. Tâm không
phóng dật, tức là tâm bất động trước ác pháp và các cảm thọ, như vậy
chúng ta đã đi nốt quãng đường của đạo Phật.
2- Sanh
y là căn bản của sự đau khổ: Có nghĩa là những pháp
chung quanh ta tạo thành một đời sống, chính vì đời sống chung đụng với mọi người,
mọi vật và mọi loài chúng sanh mà chúng ta phải chịu nhiều khổ đau, phiền toái,
v.v.. khi mà chúng ta không biết sử dụng trí tuệ nhân bản - nhân quả, cũng như
không hiểu biết sống đạo đức làm người.
Sanh
y là căn bản của sự đau khổ, đây là lời cảnh giác khuyên nhắc của đức Phật,
chúng ta hãy đề cao cảnh tỉnh mọi sanh y đối với người cư sĩ, còn với một vị Tỳ
Kheo thì sao? Xin các bạn vui lòng đọc tiếp thì sẽ rõ, có câu trả lời cho các bạn.
3- Giải
thoát là nhờ đoạn dứt sanh: Đây
là lời khuyên bảo chí tình của đức Phật, nếu muốn tìm tu sự giải thoát mà không
đoạn dứt sanh y thì không bao giờ có giải thoát được.
Bởi
vậy một vị Tỳ Kheo phải xả bỏ tất cả, sống đúng đời sống phạm hạnh “Cạo bỏ
râu tóc, đắp áo cà sa, sống không gia đình, không nhà cửa, chỉ còn ba y một
bát, một đời sống thiểu dục tri túc, tâm hồn trắng bạch như vỏ ốc, phóng khoáng
như hư không”. Chỉ có đời sống xuất gia mới tìm thấy sự giải thoát chân
thật của kiếp này.
LỜI PHẬT DẠY 1- Nói trì giới, là để chỉ cho tâm ly dục, ly ác pháp. 2- Nói dục, là chỉ cho tâm bất tịnh, cấu uế, ô trược. 3- Nói lậu hoặc, là chỉ cho tâm đau khổ. 4- Nói tịnh chỉ các hành trong thân, là để chỉ sự làm chủ sống chết. 5- Nói Tam Minh, là chỉ cho tâm vô lậu. 6- Nói Niết Bàn, là chỉ cho tâm vô dục, tâm bất động giải thoát. |
CHÚ GIẢI:
1/.
Nói trì giới: Là
chỉ cho tâm ly dục ly ác pháp, có nghĩa là người tu sĩ và người cư sĩ sống đúng
giới luật nghiêm chỉnh không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt, biết sợ hãi trong các
lỗi nhỏ nhặt, biết xấu hổ dù là phạm một giới luật nhỏ hoặc một điều ác nhỏ,
người như vậy là người đã ly dục ly ác pháp, người đã ly dục ly ác pháp là người
đã sống trong trạng thái tâm thanh thản, an lạc và vô sự, người đã sống được
trong trong trạng thái tâm thanh thản, an lạc và vô sự là người tâm Bất Động
trước các ác pháp và các cảm thọ, người có tâm Bất Động trước các ác pháp và
các cảm thọ là người có đạo đức nhân bản, người có đạo đức nhân bản là người
không làm khổ mình, khổ người. Người không làm khổ mình, khổ người là người giải
thoát của đạo Phật. Cho nên, người giải thoát của đạo Phật là người có tri kiến
giải thoát. Tri kiến giải thoát tức là đức hạnh, tri kiến giải thoát và đức hạnh
là giới luật của Phật. Cho nên, đức Phật dạy: “Tri kiến ở đâu là giới luật
ở đó, giới luật ở đâu là tri kiến ở đó”.
Tóm
lại, người trì giới là người có trí tuệ và đức hạnh, người có trí tuệ và đức hạnh
là người trì giới, người trì giới là người tu sĩ chân chánh của đạo Phật.
2/.
Nói dục: Có
nghĩa là nói nguyên nhân sinh ra đau khổ, sự đau khổ trong thế gian này được đức
Phật xem như là sự bẩn thỉu, ô trược, hôi thối, bất tịnh có nghĩa là chẳng trong
sạch, bất tịnh còn có nghĩa là ác pháp, nhưng chúng ta đừng vội vơ đũa cả nắm
cho là tất cả dục là ác pháp, là bất tịnh, là sai.
Mặc
dù dục là nguyên nhân sanh ra muôn thứ đau khổ nhưng có loại dục không đau khổ,
đó là dục không làm khổ mình, khổ người; dục làm lợi ích cho người, cho mình, dục
làm chủ sanh, già, bệnh, chết thoát khổ của kiếp làm người; dục chấm dứt luân hồi
sanh tử v.v.. Đó là những dục thiện mà người tu sĩ Phật giáo cần phải tăng trưởng.
Bởi
vậy dục có thiện dục và có ác dục nên đức Phật dạy chúng ta diệt dục ác không
diệt dục thiện. “Ngăn ác diệt ác, sanh thiện tăng trưởng thiện”
là nghĩa ấy vậy.
Diệt
dục thiện lẫn dục ác thì chúng ta trở thành cây đá còn đâu gọi là đi tìm sự giải
thoát. Phải không các bạn?
Có
người nghe kinh Tứ Thánh Đế, đến Diệt Đế họ tưởng rằng diệt hết dục là giải
thoát, là Niết Bàn, sự hiểu biết như vậy là sự hiểu biết nông cạn, là sai, là
không hiểu Phật giáo.
Trong
kinh Tứ Chánh Cần đức Phật đã xác định rõ ràng: “Ngăn ác diệt ác pháp,
sanh thiện tăng trưởng thiện pháp” như vậy chúng ta nên hiểu
Kinh Tứ Diệu Đế dạy về Diệt Đế tức là diệt tâm ham muốn ác, chứ không có dạy diệt
tâm ham muốn thiện, vì tâm ham muốn ác là tâm làm khổ mình, khổ người. Tâm làm
khổ mình, khổ người là tâm không có đạo đức nhân bản, còn ngược lại tâm ham muốn
thiện là tâm không làm khổ mình, khổ người, là tâm làm lợi ích cho mình cho người,
là tâm giải thoát của đạo Phật, là tâm Niết Bàn, vì cuối cùng của con đường thiện
pháp không làm khổ mình, khổ người thì tâm ham muốn thiện kia cũng không còn.
3/.
Nói lậu hoặc: Là
chỉ cho tâm đau khổ, có nghĩa là bất cứ một việc gì làm đau khổ nào cho mình,
cho người, cho chúng sanh thì đều gọi là lậu hoặc chứ không phải chỉ có khổ
riêng cho mình mới gọi là lậu hoặc.
Ác
pháp thường đến cho mình và cho nhiều người, không bao giờ đến đơn điệu cho một
người, cho nên nói lậu hoặc, tức là nói một chùm nhân quả khổ đau, chứ không phải
nghĩa rò rỉ của các chữ nghĩa Hán ngữ.
Lậu
hoặc là chỉ cho thân tâm đau khổ nên nó được chia ra làm ba:
1-
Dục lậu.
2-
Hữu lậu
3-
Vô Minh lậu
Người
tu hành theo Phật giáo diệt trừ được ba lậu hoặc này liền chứng đạo.
4/.
Nói tịnh chỉ các hành trong thân: là
để chỉ cho sự làm chủ sống chết, tức là nói về năng lực của pháp Như Lý Tác Ý
điều khiển chủ động bằng Tứ Như Ý Túc tức là Tứ Thần Túc. Tứ Thần Túc gồm có:
1-
Dục Như Ý Túc
2-
Tinh Tấn Như Ý Túc
3-
Định Như Ý Túc
4-
Tuệ Như Ý Túc
Do
những thần lực này mà người tu sĩ Phật giáo mới làm chủ được sanh, già, bệnh,
chết và chấm dứt luân hồi.
5/.
Nói Tam Minh: Là
chỉ cho tâm vô lậu dứt hết nghiệp tái sanh luân hồi (Lậu Tận Minh), chứ không
phải nói thần thông. Nói đến Lục Thông, Tam Minh theo như người ta nghĩ tưởng
và ưa thích là nói đến thần thông. Đạo Phật không có dạy tu tập để có thần
thông mà chỉ dạy đạo đức nhân bản nhân quả cho con người. Khi con người sống
đúng đạo đức thì tâm thanh tịnh nghĩa là không còn tâm tham sân si nữa thì nơi
tâm thanh tịnh ấy lưu xuất ra những thần lực trên. Những thần lực này có khả
năng nhập các định và thực hiện Tam Minh. Với khả năng ấy mới làm chủ sự sống
chết và chấm dứt luân hồi.
Cho
nên, Lục Thông, Tam Minh không phải thần thông làm trò ảo thuật cho người ta
xem chơi như các nhà Yoga, mà Lục Thông Tam Minh là đạo lực có công năng làm chủ
sự sống chết của con người.
Lục
Thông có:
1-
Thiên Nhãn Thông
2-
Thiên Nhĩ Thông
3-
Tha Tâm Thông
4-
Túc Mạng Thông
5-
Thần Túc Thông
6-
Lậu Tận Thông.
Tam
Minh gồm có:
1-
Túc Mạng Minh
2-
Thiên Nhãn Minh
3-
Lậu Tận Minh.
6/.
Nói Niết Bàn: Là
chỉ cho tâm vô dục, tâm bất động giải thoát, tức là tâm đã lìa xa lòng ham muốn
và các ác pháp, tâm lìa xa lòng ham muốn và các ác pháp là tâm thanh thản, an lạc
và vô sự.
Câu hỏi của Diệu Quang
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Phương pháp nhập Sơ Thiền của nhà học giả dạy: “Muốn nhập Sơ Thiền,
thì mười ác pháp đi lui, năm thiện pháp đi tới. Vậy mười ác pháp là gì?
1-
Mắt đắm sắc
2-
Tai đắm tiếng
3-
Mũi đắm hương
4-
Lưỡi đắm vị
5-
Thân đắm xúc
Cộng
năm thứ ngăn che (tham, sân, si, mạn, nghi) kể trên là 10 pháp ác.
1-
Tầm
2-
Tứ
3-
Hỷ
4-
Lạc
5-
Nhất tâm
Kính
thưa Thầy, nhà học giả dạy như vậy có đúng không?
Đáp: Ở
đây nhà học giả dạy theo kiểu tưởng giải, chứ không đúng ý của Phật dạy.
Ác
pháp gồm chung có rất nhiều, nhưng giới cư sĩ Phật dạy chỉ có: Thập thiện và thập
ác. Thập thiện và thập ác là các pháp căn bản gốc đạo đức của đạo Phật để chỉ
cho luật nhân quả thiện ác, tạo ra do ba hành động thân, miệng, ý. Từ đó sanh
ra vô lượng pháp ác và pháp thiện.
Nhà
học giả, kể ra mười pháp ác cũng đúng, nhưng lại sai, vì lấy ngũ triền cái, cộng
với pháp phòng hộ sáu căn, bỏ bớt một căn để thành năm pháp ác. Đó là sự nghĩ
tưởng của nhà học giả, chấp nối sai lạc kinh sách của Phật.
Nhà
học giả dạy tu hành ở giai đoạn này là giai đoạn ly dục, ly ác pháp, nó còn để
không xảy ra bệnh tật thần kinh tưởng. Nếu là giai đoạn tu tập thiền định và
Tam Minh thì không tránh khỏi tai họa lớn cho hành giả. Cho nên, nhà học giả kết
hợp dạy như vậy, thì chỉ có giết người, chứ không phải dạy tu thiền định như vậy.
Phật
dạy: “ly dục, ly ác pháp nhập Sơ Thiền”, chứ không có dạy
“ly 10 pháp ác, nhập Sơ Thiền”. Biết rằng trong 10 pháp
ác có dục là tham muốn, nhưng không phải vì vậy mà gọi là ly dục. Dạy theo kiểu
học giả thì người ta không biết đâu ly 10 pháp ác. Đọc đoạn kinh này ta thấy
nhà học giả không có thực hành pháp tu, chỉ nghĩ tưởng ra nói suông mà thôi, chứ
không thấy trách nhiệm lời nói của mình đối với đoàn hậu thế mai sau.
Kinh
điển, đức Phật đã dạy rất rõ ràng: “Mắt đắm sắc, tai đắm âm thanh, mũi đắm
mùi hương, lưỡi đắm vị, thân đắm xúc, ý đắm pháp”. Đó là pháp dạy phòng
hộ sáu căn, tức là pháp giữ gìn mắt, tai, mũi, miệng, thân và ý, không cho dính
mắc sáu trần là: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Phật không có dạy đó là ác
pháp, nhưng chúng ta phải hiểu khi mắt đắm sắc, tai nhiễm âm thanh, mũi thích
mùi hương, lưỡi ưa thích vị, thân đắm xúc, ý chấp pháp. Từ chỗ đắm, nhiễm, ưa,
thích, dính mắc, chấp kiến pháp đó, mới sanh ra có thương, ghét, giận, hờn, phiền
não, đau, khổ v.v.. Các pháp thương ghét, giận, hờn, phiền não đau khổ, mới
chính là ác pháp, chứ không phải mắt thấy sắc, tai nghe âm thinh, mũi ngửi
mùi... là ác pháp.
Nhà
học giả đã giảng dạy theo tưởng giải của mình, khiến cho mọi người lầm chấp, tưởng
đó là lời Phật dạy thật, nên sự hiểu biết vô minh lại càng vô minh hơn, sự sai
lệch càng sai lệch hơn.
Nhà
học giả, dạy Sơ Thiền, không có pháp hành “Mười pháp ác đi lui, năm thiện
pháp đi tới”. Nghĩa là làm cách nào tu tập, để mười ác pháp đi lui và năm
thiện pháp đi tới? Ở đây nhà học giả chỉ có nói suông, không có cách thức hay
pháp hành tu tập cụ thể rõ ràng.
Nói
về pháp thiện và pháp ác, Đức Phật đã dạy rõ ràng: “Thập thiện và thập
ác”, thì không có người Phật tử nào không biết, còn thiện ác của
nhà học giả viết ra, khiến cho người Phật tử khó hiểu, lại thấy đạo Phật có
thêm mười pháp ác lạ.
Như
vậy, nhà học giả không dựa vào lời dạy của đức Phật, tự tưởng giải theo sự hiểu
biết của mình giảng ra, khiến cho sự tu tập theo đạo Phật không còn đơn giản, rối
rắm bởi nhiều danh từ, nghe thì rất kêu, nhưng làm mất ý nghĩa pháp hành, thành
ra rỗng tuếch.
Dạy
như vậy, đi từ cái sai này đến cái sai khác. Từ đó, kinh sách của các nhà học giả
đã biến Phật giáo, thành một giáo phái ngôn luận, lý thuyết suông, khiến cho
các thầy Tỳ Kheo tu hành theo kinh sách này chỉ nói được mà không làm được.
Câu hỏi của Diệu Quang
Hỏi: Kính
thưa Thầy, theo như nhà học giả dạy: “cái chướng ngại của Sơ Thiền là tiếng ồn
đi vào tai”, có đúng không thưa Thầy?
Đáp:
Không, nhà học giả đã hiểu sai những danh từ Phật dạy. Phật dạy: “Tịnh chỉ
ngôn ngữ nhập Sơ Thiền”, nhà học giả nghe chữ “ngôn ngữ”,
rồi nghĩ tưởng ra là tiếng ồn, vì tiếng ồn thường làm động thiền định ức chế
tâm, nên Ngài luận: “Cái chướng ngại của Sơ Thiền là tiếng động đi vào
tai”.
Ngài
không hiểu thiền của đạo Phật là thiền gì? Ngài cho Sơ Thiền ngại tiếng đọng
cũng giống như Thiền Đông Độ và Thiền Đại Thừa sao?
Sơ
Thiền là một loại thiền xả tâm, nên còn có rất nhiều tên như:
1-
Tịnh chỉ ngôn ngữ
2-
Ly dục, ly ác pháp
3-
Sống trầm lặng
4-
Sống độc cư
5-
Sống phạm hạnh
6-
Bất động tâm định
7-
Vô tướng tâm định
8-
Sơ Thiền
9-
Tầm, tứ, hỷ, lạc, nhất tâm
10-
Giới luật thanh tịnh
11-
Tâm không phóng dật
12-
Tâm vô dục, vô ác pháp
Từ
xưa đến giờ, các nhà học giả không có thực hành hoặc thực hành chưa đến nơi đến
chốn, cho nên sự hiểu biết của các Ngài bằng tưởng tri, không phải bằng trí tuệ.
Xét lại sự hiểu biết về Sơ Thiền của các Ngài, mà dạy như vậy thì kinh sách của
các Ngài không còn có giá trị tu hành nữa.
Tịnh
chỉ ngôn ngữ, tức là sống độc cư, sống trầm lặng, như đức Phật đã dạy 42 bài kệ
sống độc cư và thường ca ngợi cuộc sống trầm lặng của vị khất sĩ.
Nhà
học giả không có thực hành bốn thiền hữu sắc (Tứ Thánh định), nên đã hiểu sai lệch
quá nặng, gần như không biết về bốn loại thiền này.
Nên ở
đời, mọi người ít ai chịu mình ngu dốt, cái không biết cứ tưởng mình là biết, từ
đó cái sai này dẫn đến cái sai khác. Nhà học giả cũng vậy, không biết về loại
thiền Tứ Thánh Định này, dám viết ra sách dạy người tu thiền này, xem thiên hạ
đều là bọn ngu dốt chẳng biết gì về Phật pháp cả.
Sơ
Thiền không phải là một trạng thái thiền vắng lặng, không có tiếng ồn đi vào
tai, Sơ Thiền chỉ là một trạng thái an lạc, thanh thản, có tầm, có tứ, có hỷ,
có lạc của tâm bất động. Nhà học giả chỉ luận theo danh từ trong kinh nên chẳng
rõ trạng thái Sơ Thiền như thế nào? Thấy kinh dạy: “Tịnh chỉ ngôn ngữ nhập
Sơ Thiền” nên tưởng nghĩ ra “Cái chướng ngại của sơ thiền là tiếng
ồn đi vào tai”.
Tịnh
chỉ ngôn ngữ, mà nhà học giả hiểu là tiếng ồn đi vào tai, làm chướng cho Sơ Thiền,
thì rõ ràng nhà học giả chẳng biết gì về Sơ Thiền cả như trên chúng tôi đã nói,
hiểu như vậy thật là hiểu sai ngàn vạn dặm. Nhà học giả xưa đã hiểu sai như vậy,
nhà học giả ngày nay cứ theo lối mòn cũ mà giải thích, khiến cho người đời sau
chẳng biết đâu mà tu hành.
Ý của
Phật dạy ở đây “tịnh chỉ ngôn ngữ để nhập Sơ Thiền”, tức là phòng
hộ sáu căn, phòng hộ sáu căn, tức là sống độc cư, chỉ có độc cư mới phòng hộ
sáu căn trọn vẹn, nhờ có phòng hộ sáu căn trọn vẹn, tâm mới không phóng dật,
tâm không phóng dật, tức là tâm mới ly dục ly ác pháp, tâm ly dục ly ác pháp, tức
là tâm mới nhập Bất Động Tâm Định. Từ Bất Động Tâm Định mới nhập được Sơ Thiền.
Vào
thiền thứ nhất mà nhà học giả hiểu sai, giảng sai thì làm sao giảng dạy Nhị Thiền,
Tam Thiền, Tứ Thiền và Tam Minh cho được, nên đời sau không ai nhập bốn thiền
thuộc loại Tứ Thánh Định này. Kinh sách thì dạy rõ ràng mà người không tu lại
giảng kinh sách, đó là buôn Phật bán pháp, bán chữ bán nghĩa mà ăn, làm một nghề
bất lương, chứ không phải dạy người tu hành. Mình có tu được chưa mà dám dạy
người tu như vậy?
Câu hỏi của Diệu Quang
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Nhà học giả cho chướng ngại của Nhị Thiền là tầm[1] tứ[2],
cho như vậy có đúng không thưa Thầy?
Đáp: Nhà
học giả cho chướng ngại của Nhị Thiền là tầm tứ, cho như vậy là đúng, nhưng
Ngài không biết cách tịnh chỉ tầm tứ. Tịnh chỉ tầm tứ đâu phải tịnh tọa ức chế
tâm như tu tập thiền tỉnh thức theo hành động thân và hơi thở. Nếu tu tập theo
kiểu đó thì chẳng khác nào như tu pháp sổ tức quán, niệm Phật, các phương pháp
khác của kinh sách Đại Thừa và Thiền Đông Độ, thì đó là diệt tầm tứ ức chế tâm,
đâu đúng Nhị Thiền của Phật đã dạy.
Nhị
Thiền diệt tầm tứ bằng cách dùng pháp hướng tâm Tứ Thần Túc theo đường dây hơi thở,
theo như phương pháp Đức Phật đã dạy: “Muốn nhập Nhị Thiền thì định niệm
hơi thở khéo tác ý”.
Ở
đây, nhà học giả không nói lên được pháp hành tu tập Nhị Thiền mà chỉ lờ và lướt
qua một cách nhẹ nhàng, vốn là để tránh né, vì chẳng biết cách tu như thế nào?
Như
chúng ta đã biết Sơ Thiền là thiền định, thiền định của tâm, chứ chưa phải là định
của thân, nhưng nó chính là chánh thiền định của Phật giáo, đi từ chỗ xả tâm ly
dục ly ác pháp mà vào. Vì thế, nhờ có thiền này nên tâm được an lạc, thanh thản
và vô sự; nhờ có thiền này mà giới luật mới có thanh tịnh và nghiêm trì; nhờ có
thiền này mà tâm mới an trú trong Phạm hạnh; nhờ có thiền này mà oai nghi tế hạnh
của người tu sĩ mới xứng đáng là đệ tử của đức Phật; nhờ có thiền này chúng ta
mới thấy tâm hồn giải thoát thật sự. Vì thế, mới biết rằng Phật giáo không dối
người, không lừa đảo người, nếu không có loại thiền định này (Tứ Thánh Định),
thì Phật giáo vẫn là một tôn giáo dối trá, xảo quyệt, lừa đảo lường gạt người
v.v.. làm chủ sanh, già, bệnh, chết.
Câu hỏi của Diệu Quang
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Có nhà học giả dạy: “Chướng ngại của Tam Thiền là hỷ”. Có đúng không
thưa Thầy?
Đáp:
Đúng, nhưng nhà học giả không biết pháp hành và không biết hỷ là cái gì sanh ra
hỷ, ở đây sự vui mừng của ý thức không còn nữa, vì sáu thức đã gom lại vào một
tụ điểm, nơi hành giả đang an trú trong định, ở trạng thái này sáu thức không
còn hoạt động, vì thế tưởng thức bắt đầu hoạt động. Nếu ai nhập Tam Thiền mà
không hiểu chỗ này thì không nhập Tam Thiền được.
Nhà
học giả giảng chỗ này không rõ ràng, vì không có kinh nghiệm nhập định nên nói
loanh quanh: “Chướng ngại của Tam Thiền là hỷ”, mà không
biết ly hỷ bằng cách nào? Và cũng không hiểu hỷ này thuộc về ý thức, hay tưởng
thức, hay là tâm thức?
Vào
thiền thứ hai và thiền thứ ba nhà học giả dựa vào những danh từ tịnh chỉ tầm tứ,
tịnh chỉ hỷ mà dạy theo kiểu kiến giải của mình, nhưng chẳng biết tịnh chỉ tầm
tứ như thế nào? Và loại tầm tứ nào tịnh chỉ? Tầm tứ nội hay tầm tứ ngoại? Và chẳng
biết tịnh chỉ loại hỷ nào? Tịnh chỉ như thế nào? Và khi ý thức ngưng hoạt động
thì hỷ này thuộc về uẩn nào? Uẩn nào sanh ra hỷ này? Những người không có thực
hành Tứ Thánh Định thì không thể nào hiểu nổi những trạng thái này. Muốn thực
hành Tứ Thánh Định thì phải có Định Như Ý Túc. Không có Định Như Ý Túc thì Tứ
Thánh Định chỉ có đứng ngoài cổng nhìn vào, chứ không bao giờ nếm được mùi vị
gì của Thiền định cả. Định Như Ý Túc từ giới luật sinh ra “Giới sinh định”,
tức là giới sinh ra Định Như Ý Túc. Có Định Như Ý Túc mới nhập Tứ Thánh Định được.
Cho nên, các bạn lưu ý ở chỗ này để tránh những thiền tưởng của ngoại đạo.
Tầm
tứ: có tầm tứ thiện và có tầm tứ ác, có tầm tứ nội và có tầm tứ ngoại, còn hỷ
thì có 18 loại hỷ. Vậy xả loại hỷ nào và bằng cách thức tịnh chỉ hỷ như thế
nào? Ở đây, nhà học giả không nói ra được, tức là không biết, không biết thì đừng
luận về Tứ Thánh Định, mà luận về Tứ Thánh Định thì chỉ có bậc A La Hán, người
đã nhập xong bốn loại định này, mới không luận sai.
Câu hỏi của Diệu Quang
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Nhà học giả dạy chướng ngại của Tứ Thiền là sổ tức có đúng không
thưa Thầy?
Đáp:
Không đúng, nhà học giả đã hiểu sai danh từ Phật dạy, “tịnh chỉ hơi thở”,
tịnh chỉ hơi thở không phải là sổ tức; sổ tức, tức là đếm hơi thở, còn nếu cho chướng
ngại của Tứ Thiền là sổ tức thì không đúng. Sổ tức là một pháp môn ức chế tâm,
diệt vọng tưởng, bằng cách đếm hơi thở, còn tịnh chỉ hơi thở là hơi thở ngưng
nghỉ, không còn thở nữa, nếu chỉ còn thở một chút xíu hơi thở thì cũng chưa nhập
Tứ Thiền.
Bởi
vậy, Tứ Thiền là một loại thiền định, khi nhập định thân tâm thành một khối,
nên nó còn có tên gọi là “Tâm định trên thân, thân định trên tâm”.
Các pháp môn Thiền định trên thế gian này chỉ có thiền định này làm chủ sự sống
chết và chính nó mà ngày xưa đức Phật đã đạt được đạo giải thoát, chứ không phải
là một loại thiền tầm thường như các Tổ đã gán cho nó những danh từ “Phàm
phu thiền, ngoại đạo thiền, Nhị Thừa Thiền”.
Ngưng
đếm hơi thở là một việc làm rất dễ, mà Tứ Thiền chỉ có ngưng đếm hơi thở thì người
tùy tức vẫn là nhập Tứ Thiền được sao?
Trạng
thái của Tứ Thiền là một trạng thái thân tâm bất động nên nó còn có tên khác
như trên đã nói: “tâm định trên thân, thân định trên tâm”. Người
tu thiền thời nay không hiểu định của Tứ Thiền, nên tưởng rằng tâm không vọng
tưởng, thân ngồi bất động là nhập định. Tâm thì không nhúc nhích mà thân thì
không ngừng hơi thở, còn rung động thì làm sao gọi là nhập định trên tâm được?
Vì thế hơi thở phải ngưng nghỉ, các hành trong thân phải ngưng nghỉ, thì mới gọi
là nhập định. Các nhà học giả chỉ hiểu được tâm định ở chỗ ức chế tâm, chứ
không hiểu ở chỗ xả tâm là tâm không tầm tứ, tâm không nhúc nhích, tức là tâm tịnh
chỉ tầm tứ, “tịnh chỉ tầm tứ” là một tên khác của “Nhị Thiền”.
Còn thân định thì các Ngài không hiểu, tưởng là ngồi kiết già lưng thẳng
thân không rung động là định của thân.
Vậy
người nào muốn thực hiện nhập được định Tứ Thiền thì phải tâm ly dục ly ác
pháp, tức là giới luật phải thanh tịnh và pháp hướng tâm phải có hiệu quả, chứ
không phải ngưng sổ tức mà nhập được Tứ Thiền.
Các
nhà học giả không có tu hành làm sao biết được thân định trên tâm như thế nào?
Thế mà các Ngài dám dựa theo chữ nghĩa mà giảng thì các Ngài giết người không cần
gươm đao.
Đức
Phật đã dạy rất rõ ràng, muốn nhập Bốn Thánh Định và Diệt Thọ Tưởng Định thì phải
tịnh chỉ ngôn ngữ, phải tịnh chỉ tầm tứ, phải tịnh chỉ 18 loại hỷ tưởng, phải tịnh
chỉ hơi thở và phải tịnh chỉ thọ tưởng. Các bạn lưu ý những lời Phật dạy dưới
đây:
“Tịnh
chỉ tầm tứ là ngưng khẩu hành.
Tịnh
chỉ hỷ là ngưng tưởng hành.
Tịnh
chỉ hơi thở là ngưng thân hành.
Tịnh
chỉ thọ tưởng là ngưng ý hành.
Tịnh
chỉ ngôn hành là nhập Sơ Thiền.
Tịnh
chỉ khẩu hành là nhập Nhị Thiền.
Tịnh
chỉ tưởng hành là nhập Tam Thiền.
Tịnh
chỉ thân hành là nhập Tứ Thiền.
Tịnh chỉ thọ
hành và tưởng hành là nhập Diệt Tận Định còn gọi là nhập Diệt Thọ Tưởng Định”.
Câu hỏi của Diệu Quang
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Nhà học giả dạy trong Sơ Thiền ta cần chấm dứt tiếng ồn để lên Nhị
Thiền, như vậy có đúng không?
Đáp:
Không, Phật dạy diệt tầm tứ nhập Nhị Thiền hay tịnh chỉ khẩu hành nhập Nhị Thiền,
chứ không có dạy trong Sơ Thiền chấm dứt tiếng ồn nhập Nhị Thiền. Nhà học giả lầm
tưởng khẩu hành là ngôn ngữ và ngôn ngữ là khẩu hành. Ngôn ngữ là lời nói, khẩu
hành không phải là lời nói mà hành động phát ra lời nói, hành động phát ra lời
nói tức là tầm tứ.
Tịnh
chỉ tầm tứ, tức là tịnh chỉ ý thức, ý thức không còn hoạt động giao lại cho tưởng
thức hoạt động, do thế đức Phật dạy diệt tầm tứ định sanh hỷ lạc, hỷ lạc ở đây
do tưởng uẩn lưu xuất, vì tưởng thức thay thế cho ý thức đang hoạt động, nên ta
có cảm giác hỷ lạc.
Ví dụ:
Một người đang ngủ thì mới có chiêm bao, còn người thức thì không bao giờ có
chiêm bao. Chiêm bao là tưởng hoạt động.
Khi
một người có vọng tưởng, tức là ý thức câu hữu với tưởng thức. Cho nên, thế giới
hữu hình và thế giới siêu hình đều ở trong ta và đang hoạt động từng phút giây,
vừa hoạt động kết hợp với nhau mà cũng có những sự hoạt động riêng lẽ như trong
giấc mộng.
Câu hỏi của Diệu Quang
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Trong Nhị Thiền ta chấm dứt tầm tứ để lên Tam Thiền, có đúng như vậy
không thưa Thầy?
Đáp: Không, đức Phật
dạy diệt tầm tứ nhập Nhị Thiền, chớ không có dạy dứt tầm tứ để lên Tam Thiền. Nếu
dứt tầm tứ còn lấy cái gì để lên Tam Thiền, nhà học giả tưởng rằng ở trạng thái
của Nhị Thiền chỉ cần lìa trạng thái hỷ là nhập Tam Thiền (ly hỷ trú xả nhập
Tam Thiền). Trong kinh Phật dạy rất rõ ràng: “xuất Nhị Thiền rồi mới nhập
Tam Thiền”. Ly hỷ trú xả là một tên khác của Tam Thiền chớ không phải
là pháp hành. Nếu nói ly hỷ là ly được hỷ liền thì đâu cần gì phải tu tập.
Ly hỷ là một danh từ để chỉ trạng thái tịnh chỉ tưởng
thức, chứ không phải lìa sự vui mừng của cảm giác ý thức như nhà học giả hiểu.
Người
có kinh nghiệm tu hành, nói ly hỷ là họ biết ngay phải tu tập những pháp môn
nào mới ly được hỷ tưởng.
Câu hỏi của Diệu Quang
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Trong Tam Thiền ta chấm dứt hỷ để lên Tứ Thiền, như vậy có đúng
không thưa Thầy?
Đáp:
Không, đức Phật dạy ly hỷ trú xả nhập Tam Thiền, chứ không có dạy trong Tam Thiền
chấm dứt hỷ lên Tứ Thiền.
Chấm
dứt hỷ đức Phật không có dạy mà dạy ly hỷ trú xả nhập được Tam Thiền, đàng này
hỷ chưa ly mà nhập trong Tam Thiền được sao? Nhà học giả này lầm lộn quá, không
sợ phạm tội Ba dật đề, đọa địa ngục sao?
Dám giảng sai ý của Phật như vậy, làm mất giá trị pháp môn tu hành của Phật
giáo.
Tóm
lại, muốn nhập Tam Thiền người tu sĩ phải lìa xa các trạng thái (ly hỷ) tưởng,
khi đã lìa xa các trạng thái tưởng thì chiêm bao không còn, có như vậy mới nhập
được Tam Thiền.
Muốn
nhập Tứ Thiền hành giả phải xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh, tức là tịnh chỉ
hơi thở, đó là con đường tu tập thiền định mà Phật đã dạy như vậy, còn nhà học
giả dạy chấm dứt hỷ để lên Tứ Thiền, đó là thiền của các Tổ, chúng ta xin miễn
bàn.
Câu hỏi của Diệu Quang
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Trong Tứ Thiền ta ngưng sổ tức để đạt tới Không Định, như vậy có
đúng không thưa Thầy?.
Đáp:
Không, đức Phật không có dạy trong Tứ Thiền ngưng sổ tức để đạt tới Không Định.
Đức Phật dạy: “Muốn nhập Không Định thì phải dùng “Tưởng Không” mà tu tập”,
như trong kinh Tiểu Không đức Phật đã dạy. Nhà học giả này giàu tưởng tượng tự
đặt ra sự nối tiếp giữa bốn thiền hữu sắc và bốn định vô sắc, chứ ông ta đâu biết
rằng bốn thiền hữu sắc và bốn thiền vô sắc tu hành khác nhau, không giống nhau
chút nào. Thiền hữu sắc dùng ý thức mà tu, còn định vô sắc dùng tưởng thức mà
tu. Cho nên, sự tu hành của hai loại thiền này cách biệt rất xa và cũng không
phải là hai bậc thang của một cây thang.
Phật dạy nhập Tứ Thiền hơi
thở tịnh chỉ, hơi thở đã tịnh chỉ thì còn đâu phải ngưng sổ tức, nhà học giả
này đã tự đặt ra mà không thấy cái sai của mình. Từ xưa đến giờ, các Tổ đều
nghĩ tưởng bốn thiền hữu sắc thấp hơn bốn định vô sắc. Vì có nhập được bốn thiền
hữu sắc thì mới có thể nhập bốn định vô sắc, hiểu như vậy, tức là hiểu sai.
Xưa, đức Phật chưa nhập bốn thiền hữu sắc mà đã được hướng dẫn nhập bốn định vô
sắc và Ngài đã nhập được Vô Sở Hữu Xứ Định và Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Định.
Người muốn nhập định vô sắc
thì không cần phải nhập định hữu sắc, vì trong kinh Tiểu Không Đức Phật đã dạy
rõ ràng. Quý vị nên đọc lại bài kinh Tiểu Không, ở trong kinh Trung Bộ. Muốn nhập
Không Vô Biên Xứ Định, Đức Phật đã dạy: “ý thức thanh tịnh không liên hệ ngũ
căn thì nhập Không Vô Biên Xứ Định”, chứ không phải nhập Tứ Thiền rồi mới
nhập Không Định như nhà học giả đã dạy ở trên.
Tóm lại, các nhà học giả phần
đông chưa có tu tập nhập được từ Sơ Thiền đến Tứ Thiền thì không làm sao giảng
nổi Tứ Thánh Định. Nếu không có kinh nghiệm tu hành nhập được Tứ Thánh Định
chân thật thì Tứ Thánh Định của đạo Phật chỉ còn là một bài kinh chữ nghĩa
suông, nếu ai đem giảng nói, mà không có kinh nghiệm tu hành thì không có ích lợi
gì cho ai cả mà còn hại cho người tu sau này. Nhiều nhà học giả tự đặt ra bằng
trí tưởng tượng nên làm sai lệch ý nghĩa lời dạy của đức Phật, càng giảng Tứ
Thánh Định lại càng thêm tối nghĩa, mù mờ không rõ, pháp hành không có.
Câu hỏi của Diệu Quang
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Trong Kinh An Ban Thủ Ý dạy: Trong thời gian 10 hơi thở ấy mà đếm không
lộn, là ý bắt đầu có định. Định nhỏ thì có thể kéo dài trong 3 ngày, định lớn 7
ngày, trong thời gian ấy không có một tưởng tạp loạn chen vào, hành giả ngồi
yên như người chết, đó gọi là Sơ Thiền, thưa Thầy kinh dạy như vậy có đúng
không?
Đáp:
Không, đức Phật dạy ly dục ly ác pháp nhập Sơ Thiền, chứ không có dạy như trong
kinh An Ban Thủ Ý. Dạy như trong kinh An Ban Thủ Ý thì đó là một loại thiền ức
chế tâm bằng pháp môn sổ tức.
Chúng
ta phải hiểu Sơ Thiền là loại thiền xả tâm có tầm có tứ, còn sổ tức là pháp môn
ức chế tâm không tầm không tứ “ngồi yên như người chết” mà gọi là
nhập Sơ Thiền thì kinh này dạy sai, không đúng như lời Phật dạy.
Đây
là một bài học cho chúng ta thấy, các Tổ viết và soạn kinh sách như vậy, không
đúng như lời Phật đã dạy. Như vậy chúng ta còn đủ lòng tin ở các Tổ nữa không?
Kinh sách của các Ngài chúng ta còn đội trên đầu vai mang nữa hay không?
Sổ tức,
tức là còn đếm hơi thở, đếm hơi thở là còn tác ý, hơi thở là đối tượng của tâm,
tâm còn ở trong niệm hơi thở và còn tác ý ức chế tầm tứ thì làm sao gọi là định
thứ nhất được? Vậy mà mười hơi thở đếm không lộn là có định, định này là định của
các Tổ, chứ Phật thì không có định như vậy, và cũng không tu sổ tức như vậy được,
đức Phật chỉ dạy nhập Sơ Thiền là tâm ly dục ly ác pháp thì tâm mới có thiền,
chưa có định. Còn ngược lại nhà học giả xác định mười hơi thở là có định thì đó
là một sự sai biệt giữa Tổ và Phật một trời một vực.
Tại
sao chúng ta biết rõ như vậy?
Tại
vì đức Phật dạy rất rõ ràng: Do “ly dục sanh hỷ lạc nhập Sơ Thiền”. Chỗ
Sơ Thiền Phật không dạy: “định” sanh hỷ lạc, mãi cho đến khi nhập
Nhị Thiền Phật mới nói: “Định sanh hỷ lạc”.
Đếm
hơi thở và ly dục ly ác pháp là hai việc làm khác nhau, một đàng thì xả tâm để
tâm được thanh tịnh giải thoát (dục và ác pháp); một đàng thì tu ức chế tâm, để
tâm không có tầm tứ; một đàng tu thì còn tầm tứ thiện; một đàng tu thì diệt cả
tầm tứ thiện và ác.
Do
đó, chúng ta thấy rất rõ, đếm hơi thở không thể nào nhập Sơ Thiền được. Người tu
theo đạo Phật phải sống một đời sống Phạm hạnh, nhờ có sống đời sống Phạm hạnh,
tâm mới ly dục ly ác pháp, tâm có ly dục ly ác pháp thì mới nhập được Sơ Thiền.
Câu hỏi của Diệu Quang
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Tâm ý, sở dĩ định được là nhờ theo dõi hơi thở, cấu uế đã được tiêu
diệt thì tâm ý dần dần trong sạch, đó gọi là Nhị Thiền. Thưa Thầy những lời dạy
này có đúng trong kinh điển của đức Phật dạy hay không?
Đáp:
Không, Phật dạy khi nhập Sơ Thiền thì tâm phải ly dục ly ác pháp, tâm ly dục ly
ác pháp là tâm giới luật nghiêm trì, tâm giới luật nghiêm trì là tâm thanh tịnh,
tâm thanh tịnh thì cấu uế lần lần tiêu diệt chỉ còn dùng định niệm hơi thở khéo
tác ý hướng tâm tịnh chỉ tầm tứ thì liền nhập Nhị Thiền. Còn tâm chưa ly
dục ly ác pháp là tâm chưa thanh tịnh, tâm chưa thanh tịnh thì tâm không có
cách nào nhập được Sơ Thiền, tâm chưa nhập được Sơ Thiền thì giới luật chưa
thanh tịnh, giới luật chưa thanh tịnh thì tâm chưa thanh tịnh, tâm chưa thanh tịnh
thì không thể theo dõi hơi thở mà nhập được Sơ Thiền, Sơ Thiền chưa nhập được
thì mong gì nhập được Nhị Thiền, còn cấu uế của tâm là nhờ giới luật mới được
tiêu trừ chứ không phải nhờ có định. Nhà học giả dạy nhập định theo kiểu tưởng
giải của mình, không đúng như kinh Phật dạy.
Phật
dạy nhập định Nhị Thiền không có ức chế tâm chỉ dùng tâm ly dục ly ác pháp tức
là tâm thanh tịnh, tâm Sơ Thiền, tâm thanh tịnh ở đây có nghĩa là tâm không
phóng dật, thanh thản và an lạc. Người muốn nhập Nhị Thiền phải ở trạng thái
này nương theo định niệm hơi thở, dùng pháp hướng tâm như lý tác ý tịnh chỉ tầm
tứ.
Phật
không dạy tùy tức nhập Nhị Thiền và cũng không dạy nhờ định mà cấu uế được tiêu
diệt. Kinh An Ban Thủ Ý dạy điều này để nhập Nhị Thiền là không đúng như kinh
Phật dạy.
Đọc
bài tựa kinh An Ban Thủ Ý, ta thấy những lối lập luận về Tứ Thánh Định, pháp
hành không đúng cách, những từ dùng để chỉ thiền định không đúng như lời Phật dạy
trong kinh, định mà còn niệm thì làm sao định được, đếm và tùy đó là hai phương
pháp ức chế tâm thì không thể là thiền định được.
Kinh
này dạy: Bỏ pháp đếm hơi thở chú tâm vào chóp mũi gọi là chỉ, làm như chỗ tâm ý
ở đầu chóp mũi đó là Tam Thiền. Cách thức dạy nhập Tam Thiền như thế này không
giống như Phật dạy: “ly hỷ trú xả nhập Tam Thiền”. Cách thức tu tập theo
Phật dạy, dùng định niệm hơi thở khéo tác ý hướng tâm tịnh chỉ 18 loại hỷ tưởng,
âm thanh và mộng vắng bóng.
Về Tứ
Thiền kinh An Ban dạy: Niềm tin Tam Bảo vững chãi, bây giờ tất cả những gì u tối
đều trở nên trong sáng, đó gọi là “Tứ Thiền”. Nếu dạy theo kinh An Ban, chỉ cần
có niềm tin Tam Bảo vững chãi là nhập được Tứ Thiền, thì như vậy Tứ Thiền nhập
quá dễ dàng. Tứ Thiền là một loại định bất động của thân không phải là một việc
dễ làm, hơi thở ngưng nghỉ không phải là chuyện dễ. Phật không dạy như thế này
mà dạy tịnh chỉ hơi thở nhập Tứ Thiền, tịnh chỉ hơi thở, tức là không còn thở,
không còn thở, tức là xả thọ, xả thọ mà trong kinh gọi là xả lạc, xả khổ, xả niệm
thanh tịnh.
Lạc,
khổ thuộc về thọ, niệm thanh tịnh là đối tượng của tâm, còn có thọ và đối tượng
của tâm là chưa nhập được Tứ Thiền. Cho nên, muốn nhập Tứ Thiền thì phải tu tịnh
chỉ hơi thở, tịnh chỉ hơi thở, tức là không còn đối tượng của tâm, nên thân định
trên tâm và tâm định trên thân.
Nếu
còn có đối tượng trong sáng của tâm là chưa phải nhập Tứ Thiền nên kinh An Ban
dạy nhập định Tứ Thiền không đúng như theo lời Phật đã dạy trong kinh Nguyên Thủy.
Câu hỏi của Diệu Quang
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Hành giả gom ý thức lại khiến cho nó không còn sanh vọng tưởng, như
vậy là nhập thiền thứ mấy?
Đáp: Gom
ý thức lại khiến nó không sanh vọng tưởng là nhập thiền định tưởng. Gom ý thức
lại, tức là ức chế tâm, ức chế tâm tức là ức chế ý thức, ức chế ý thức được thì
tưởng thức hưng phấn, tưởng thức hưng phấn thì sanh mười tám loại hỷ lạc tưởng,
tùy theo ở mức độ hưng phấn cao thấp mà người tu sẽ bị căng thần kinh sanh ra bệnh
điên khùng, nếu mức hưng phấn thấp thì sanh ra kiến giải tưởng giải, nói thiền,
nói đạo lung tung.
Người
tu thiền phải đề cao cảnh giác loại thiền ức chế tâm, nó rất nguy hiểm, nhất là
những người có nhiệt tâm tích cực tu hành thì dễ bị hưng phấn, rối loạn thần
kinh. Phần nhiều hiện giờ, người tu thiền dễ bị tu lạc vào thiền ức chế tâm, tại
vì tất cả các pháp môn thiền đều dạy cách thức ức chế tâm ngoại trừ pháp môn của
đức Phật là thiền xả tâm mà thôi.
Tuy
vậy, thiền của Phật không ức chế tâm, nhưng chúng ta thực hành không đúng và
không thiện xảo khéo léo xả tâm thì sẽ biến thành thiền ức chế tâm, nó cũng
không kém tai hại như những thiền khác.
Câu hỏi của Diệu Quang
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Gom sáu thức lại một chỗ, thưa Thầy sẽ nhập định gì?
Đáp: Gom
sáu thức lại một chỗ và biết cách hướng tâm xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh thì
sẽ nhập Tứ Thiền, tức là tịnh chỉ hơi thở.
Gom
sáu thức lại một chỗ mà không biết cách xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh thì
sẽ nhập định tưởng, vì sáu thức ngưng hoạt động nên tưởng thức hoạt động, tưởng
thức hoạt động thì đó là nhập định tưởng, tức là ức chế ý thức hưng phấn tưởng
thức.
Gom
sáu thức cũng không phải là một việc dễ làm, gom được sáu thức mà còn phải biết
cách xả, nếu không biết cách xả thì rất là nguy hiểm, cũng như ức chế chỗ này
mà không biết hướng dẫn hưng phấn chỗ khác cho đúng, để tự nó hưng phấn thì sẽ
trở thành điên khùng. Việc tu hành không phải dễ, một vị thầy có kinh nghiệm hướng
dẫn tu thiền định thì phải nghe theo và thực hành cho đúng 100 phần trăm, không
được tự ý hành theo kiểu tưởng giải của mình. Xưa, đức Phật dạy như thế nào thì
các vị Tỳ Kheo làm như thế nấy, còn những vị nào tu sai không đúng lời dạy của
Phật thì phải chịu lấy hậu quả, kết quả chẳng ra gì mà phải gánh hậu quả bệnh tật
về sau.
Phải
cảnh giác sự gom sáu thức, nếu không có người hướng dẫn thì đừng nên tu tập, nó
có lực để xả tâm nhanh chóng nhưng nó có hại làm hưng phấn tưởng thức quá cao,
sanh ra bệnh điên khùng nguy hiểm đến tánh mạng.
Câu hỏi của Diệu Quang
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Gom ý thức bằng cách nào?
Đáp: Gom
ý thức của các Thiền Đại Thừa và Thiền Đông Độ là bằng cách ức chế tâm do pháp môn
Sổ tức, Tùy tức, Niệm Phật, Niệm chú, Tri vọng, Chăn trâu, Tham thoại đầu, Tham
công án, v.v..
Tứ
Thánh Định thiền của Phật giáo là thiền diệt ngã, xả tâm, ly dục, ly ác pháp
(tâm không phóng dật), tức là thiền định không ức chế tâm.
Nói
tóm lại, gom ý thức của Đại Thừa và Tối Thượng Thừa là ức chế tâm, còn gom ý thức
của Phật Giáo Nguyên Thủy là xả tâm, tâm không phóng dật, tức là gom ý thức.
Xin
quý vị cần đề cao cảnh giác các pháp môn thiền định khi muốn tu phải cẩn thận
quán xét thiền nào xả tâm và thiền nào ức chế tâm.
Câu hỏi của Diệu Quang
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Gom ý thức để diệt tầm tứ nhập Nhị Thiền bằng cách nào?
Đáp: Gom
ý thức diệt tầm tứ để nhập Nhị Thiền bằng cách nương hơi thở dùng pháp hướng tịnh
chỉ tầm tứ, chứ không được dùng hơi thở ức chế tâm.
Ở
đây, chúng ta phải hiểu chữ “gom ý thức” của thiền Phật giáo
nghĩa là tâm không phóng dật, đừng hiểu gom ý thức bằng nghĩa ức chế tâm, gom ý
thức bằng nghĩa ức chế tâm là sổ tức hoặc tùy tức, tọa thiền tập trung ý thức bằng
hơi thở hoặc bằng câu niệm Phật, v.v.. Gom tâm ở đây cho đúng nghĩa của Phật dạy
là tu tập “Tứ Chánh Cần”.
Tu tập
Tứ Chánh Cần là ngăn ác pháp và diệt ác pháp, ngăn ác pháp và diệt ác pháp, tức
là ly dục ly ác pháp, ly dục ly ác pháp, tức là tâm không phóng dật, tâm không
phóng dật, tức là tâm hướng vào trong thân, nói cách khác là tâm định trên
thân; tâm định trên thân, tức là “gom ý thức diệt tầm tứ nhập Nhị Thiền”.
Câu hỏi của Diệu Quang
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Muốn nhập Tam Thiền phải gom sáu thức nào?
Đáp: Muốn
nhập Tam Thiền phải gom tưởng thức, nếu trả lời một cách ngắn gọn như vậy thì
quý vị rất khó hiểu.
Khi chúng
ta nhập Nhị Thiền, tầm tứ diệt, ý thức ngưng hoạt động, nên bước sang qua Tam
Thiền, tưởng thức hoạt động, thay thế cho ý thức. Vì vậy, muốn nhập được Tam
Thiền phải “gom tưởng thức, tức là ly hỷ trú xả”. Tam
Thiền không có gom sáu thức vì sáu thức đã được gom và thuần hóa ở Nhị Thiền.
Cho
nên, muốn nhập Tam Thiền thì phải lìa xa các trạng thái của tưởng thức, lìa các
trạng thái của tưởng thức, tức là “Ly hỷ trú xả”, như trong kinh
đã dạy.
Câu hỏi của Diệu Quang
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Muốn nhập Tứ Thiền phải gom thức nào?
Đáp: Muốn
nhập Tứ Thiền Phải gom năm thức: thọ thức, nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, vị thức.
Nếu trả lời như vậy, quý vị sẽ cho chúng tôi chẳng hiểu kinh sách Phật, vì trả
lời như vậy trong kinh sách Phật không có dạy.
Ở
đây chúng tôi tùy theo câu hỏi mà trả lời, nhưng rất đúng nghĩa của Phật đã dạy.
Quý vị nhớ lại xem lúc nhập Sơ Thiền là tâm không phóng dật, tâm không phóng dật,
tức là sáu thức đã quay vào trong thân, không còn phóng ra ngoài, nên thân động
dụng việc gì thì sáu thức đều biết rõ, biết rõ bên trong mà không biết bên
ngoài, lúc này gọi là tâm định trên thân.
Đến
Tứ Thiền sao lại còn gom năm thức? Gom năm thức, ở đây quý vị cần phải hiểu,
năm thức còn hoạt động bên trong nên gom năm thức, tức là tịnh chỉ năm thức, tịnh
chỉ năm thức là điều khiển năm thức ngưng hoạt động, điều khiển năm thức ngưng
hoạt động, tức là tịnh chỉ hơi thở, tịnh chỉ hơi thở tức là xả lạc, xả khổ, xả
niệm thanh tịnh. Hay nói một cách khác là “thân hành tịnh chỉ”.
Thân hành tịnh chỉ, tức là nhập Tứ Thiền hay nói cách khác là gom năm thức nhập
Tứ Thiền.
Câu hỏi của Diệu Quang
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Con người từ đâu sanh ra? Chết đi về đâu?
Đáp: Con
người từ nhân quả sanh ra, sống trong nhân quả, chết đi về nhân quả. Trả lời
như vậy, quý vị rất khó hiểu và cũng không hiểu được như thế nào là đúng?
Các
tôn giáo khác, thường có câu hỏi: “Con người từ đâu sanh ra, chết đi về
đâu?”. Có tôn giáo cho con người sanh từ đấng Tạo Hóa; lại có tôn giáo
cho con người sanh ra từ khí Âm và khí Dương; lại có tôn giáo cho con người
sanh ra từ Đại Ngã; lại có tôn giáo cho con người từ Bản Thể Vạn Hữu sanh ra; lại
có tôn giáo cho con người sanh ra từ miệng Phạm Thiên, do đức Chúa Trời sinh ra
v.v..
Tất
cả những giả thuyết trên đúng hay sai chúng ta không có ý kiến, nhưng đứng
trong tôn giáo Phật giáo, thì đức Phật đã xác định: “Con người từ nhân quả
sanh ra, sống trong nhân quả, và chết trở về nhân quả”. Đó là lời
xác quyết rất hùng hồn, chỉ vì Ngài đứng trên lập trường “duyên hợp”
của các pháp. Trong thế gian này không có một vật thể nào độc lập riêng lẽ tự
nó. Cho nên tất cả vạn vật sanh ra đều do các duyên hợp mà thành.
Các
pháp sanh ra đều phải do có hành động, có hành động mới sanh ra được, nói một
cách khác các duyên hợp lại, phải trực tiếp qua các hành động, nhưng mỗi hành động
đều không có sự hiểu biết, sự hiểu biết có được là nhờ vào tri thức, nhưng tri
thức hiểu biết chỉ biết trong giới hạn “hữu hạn” ngoài vô hạn thì
tri thức không hiểu rõ, vì thế sự hiểu biết của tri thức còn trong vô minh.
Hành động thiện và ác nó đều không biết, cho nên từ đó tri thức tạo tác những
hành động thân, miệng, ý khiến cho mình khổ và người khác khổ. Nhưng hễ có hành
động, tức là có nhân quả.
Phật
dạy: “Vô minh sanh hành, hành sanh thức”. Vì vậy, con người từ
hành động vô minh sanh ra, nói cách khác cho đúng câu trả lời trên: “Con
người từ nhân quả sanh ra”.
Câu hỏi của Diệu Quang
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Nhân quả là cái gì? xin Thầy hoan hỷ chỉ dạy cho chúng con được biết.
Đáp:
Nhân quả là chữ Hán, nhân: có nghĩa là hạt; quả: có nghĩa là trái, gồm chung
hai chữ nhân quả lại nghĩa đen của nó là hạt và trái. Hạt giống nào sẽ cho trái
nấy, không thể cho trái khác được. Ví dụ: hạt cam khi gieo lên thành cây sẽ cho
trái cam; hạt chanh sẽ cho trái chanh, không thể nào hạt cam mà cho trái chanh
được, cũng như hạt chanh không thể nào cho trái cam được, v.v.. Còn nghĩa bóng
là hành động thiện hay ác, nếu hành động thiện thì được phước báo an vui, còn
hành động ác thì phải thọ lấy sự đau khổ, tức là hành động nào sẽ gặt lấy hậu
quả của hành động nấy.
Ví dụ:
Như hành động trộm cắp thì phải gặt lấy hậu quả của hành động trộm cắp là bị bắt
ở tù, hoặc bị người mất của bắt được đánh đập, có khi họ giết chết.
Hậu
quả của sự tham lam trộm cắp, không những ở trong kiếp hiện tại nghèo nàn, đói
khổ mà còn kéo dài trong các kiếp vị lai nữa. Cho nên, nhân quả tham lam đem lại
cho đời người một sự nghèo đói bất hạnh vô cùng, là con người chúng ta phải
tránh gieo nhân quả trộm cắp, cướp giựt của người khác, do không tham lam trộm
cướp của người khác thì đời sống của chúng ta sẽ được no cơm ấm áo, nếu càng
gieo nhân quả tham lam trộm cắp thì đời sống của chúng ta sẽ đói khổ vô cùng và
trong muôn kiếp.
Kẻ
làm ác giết hại chúng sanh, ăn thịt chúng sanh thì hậu quả sẽ bị tai ương, bệnh
tật, khổ đau, hoạn nạn hoặc bị sự giết hại của kẻ khác, bằng cách này hoặc bằng
cách khác v.v..
Hành
động thiện thì hưởng được phước báo như: Cơm ăn áo mặc đầy đủ, cuộc sống gặp
nhiều may mắn, trong nhà hòa thuận vui tươi, con cái hiếu hạnh biết vâng lời dạy
bảo của cha mẹ, còn hành động ác thì thọ khổ như: bệnh tật, tai nạn, trong nhà
thường rầy rà, bất hòa chẳng an, con cái cãi lời cha mẹ, đi chơi bỏ học hành,
trộm cắp tiền của cha mẹ, thường làm gia đình khổ, người khác khổ.
Luật
nhân quả rất công bằng và công lý không ai lo lót, hối lộ tiền bạc mà hết khổ
được, dù có quyền thế tiền bạc đến đâu luật nhân quả vẫn công bằng không tư vị.
Vì thế,
người gieo nhân ác không thể cầu khẩn chư Phật, chư Bồ Tát và Ngọc Hoàng Thượng
Đế cùng các bậc Thánh Vạn Năng cũng không cứu giúp cho mình được. Nên vấn đề cầu
an, cầu siêu, cầu xin ban phước lành chẳng bao giờ có được, chỉ là một trò lừa
bịp lường gạt người khác, chẳng có ích lợi gì mà còn hao tài tốn của vô lối chẳng
ích lợi gì cho ai cả.
Câu hỏi của Diệu Quang
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Nhân quả do đâu mà xuất phát?
Đáp:
Nhân quả do ba chỗ xuất phát trong bản thân của mỗi con người, đó là thân, miệng,
ý.
Ba
nơi này là ba nơi nhân quả thường hoạt động khiến cho con người chịu khổ đau
cũng như hưởng hạnh phúc, an vui. Hành động nơi thân, hành động miệng và hành động
ý đều xuất phát nhân quả thiện hay ác. Nếu xuất phát nhân quả thiện thì người ấy
được an vui, thanh thản và hạnh phúc. Cuộc sống cơm ăn áo mặc, tiền của dư giả
không thiếu hụt, ít tai nạn, ít bệnh tật, thường được mọi người yêu mến và kính
trọng, cuộc sống đầy dẫy hạnh phúc an vui, dù bất kỳ ở nơi đâu cũng vậy. Ngược
lại, ba nơi ấy xuất phát nhân quả ác, thì người ấy phải chịu nhiều tai ương hoạn
nạn, bệnh tật khổ đau kéo đến bủa vây không người này đến người khác, trong nhà
thường xảy rầy rà bất hòa, lúc nào cũng cơm chẳng lành canh chẳng ngon, khiến
cho tâm hồn mọi người đều đau khổ, bất an v.v..
Thân,
miệng, ý là ba nơi hoạt động của nhân quả tạo ác, tạo thiện làm mình khổ, người
khác khổ và tất cả chúng sanh khổ cũng chính do ba chỗ này.
Vậy
ai là người chủ động hoạt động tại nơi ba chỗ này?
Ba
chỗ này không có người chủ động hoạt động, chỉ có “Vô minh và Minh” hoạt động
mà thôi, nếu vô minh hoạt động nơi ba chỗ này tạo nhân quả ác, chuyển thành
nghiệp lực thì con người và tất cả chúng sanh phải chịu khổ đau tận cùng và tiếp
tục tái sanh luân hồi mãi mãi trong vòng nghiệp lực ấy, nghiệp lực ấy do từ hành
động thân, miệng, ý đã tạo ra nhân quả hạnh phúc hay khổ đau cho chính mình.
Thấu
hiểu được lý duyên hợp của các pháp do vô minh mà định luật nhân quả sâu sắc
này mới có luân hồi, nên đức Phật đã dạy chúng ta thấu suốt “Mười Hai
Nhân Duyên” do “Vô minh” hợp lại thành một thế giới khổ
đau mà con người và chúng sanh phải chịu lấy cái đau khổ này mãi mãi từ đời này
sang đời khác vô cùng, vô tận.
Muốn
thoát khổ của kiếp làm người và thân chúng sanh, đức Phật đã dạy cho chúng ta
“Minh” để thấu suốt lý nhân quả và đập tan “Mười Hai Nhân Duyên” phá
sạch thế giới đau khổ, giải phóng con người thoát khổ, chấm dứt luân hồi, làm
chủ sanh tử.
Vì
thế, người học Phật mà không có trí tuệ “Minh”, không phá
vỡ Mười Hai Nhân Duyên thì chỉ là một học giả nghiên cứu giáo pháp của Phật để
nói láo ăn tiền.
Muốn
phá vỡ Mười Hai Nhân Duyên, người tu sĩ đạo Phật phải rèn luyện cái thấy của
mình đối với các pháp bằng “đôi mắt nhân quả” và sống
đúng đời sống “Phạm hạnh” như Phật thì Mười Hai Nhân Duyên sẽ tan
rã, thế giới khổ không còn, người tu sĩ giải thoát hoàn toàn.
Câu hỏi của Diệu Quang
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Tại sao con người sanh ra là do ba nơi hành động thân, miệng, ý này?
Đáp: Con
người sanh ra do ba hành động thân, miệng, ý, nếu trong ba hành động thân, miệng,
ý này do “Vô minh” điều khiển, tác động thì thế giới đau khổ của một con người
sẽ bắt đầu mở ra.
Nếu
ba hành động thân, miệng, ý này do “Minh” điều khiển thì thế giới khổ đau của một
con người sẽ bắt đầu chấm dứt.
Ba
nơi này thường tạo ra nghiệp lực của con người theo hành động nhân quả. Như đức
Phật đã dạy cho chúng ta biết, khi con người chết hoàn toàn không còn một vật
gì thường hằng bất di, bất dịch, chỉ còn nghiệp lực thiện hay ác tiếp tục tái
sanh mà thôi.
Ba
nơi này sanh ra nghiệp lực, từ nghiệp lực này mãi mãi tiếp tục sanh tử luân hồi,
cho nên gọi ba hành động này con người từ đó sanh ra là vậy.
Câu hỏi của Diệu Quang
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Vô minh là gì? Nó điều khiển nơi ba hành động thân, miệng, ý này mà
thế giới đau khổ của một con người mở ra như thế nào?
Và
minh là gì? Nó điều khiển ba nơi thân, miệng, ý thì thế giới khổ đau của một
con người chấm dứt, xin Thầy vì chúng con mà chỉ dạy cho rõ ràng để chúng con
tu tập?
Đáp: Vô
minh là sự hiểu biết theo tâm ham muốn của mình (ái dục), vô minh là sự hiểu biết
đối với các pháp không đúng như thật; hiểu biết một cách lệch lạc thiếu khoa học;
hiểu biết theo chủ quan thiếu thực tế và cụ thể; hiểu biết trong các pháp đối
đãi, hiểu biết trong hạn hẹp và hiểu biết bằng tưởng tượng v.v..
Nói chung
cái hiểu biết bằng trí hữu hạn của con người là “vô minh”. Vì thế, biết bao
nhiêu bài pháp của đức Phật đã vạch ra cho mọi người thấu hiểu rất rõ ràng, từ
thế giới hữu hình đến thế giới siêu hình, toàn là thế giới duyên hợp không có một
vật thể gì là thực thể thường hằng, bất biến. Phật dạy rất rõ, thế mà con người
cứ hiểu biết mọi vật là thật có, thậm chí đến cái thế giới siêu hình cũng cho
là có thật. Vì cho nó là thật, nên luôn luôn bị dính mắc chấp đắm, do sự dính mắc
chấp đắm các pháp mà con người tạo biết bao nhiêu điều đau khổ cho nhau, biến
cuộc sống con người trên hành tinh này thành địa ngục. Con người chỉ còn là những
ác quỷ giết hại lẫn nhau, chà đạp lên nhau, gian xảo, mánh mung, lừa đảo, lừa gạt,
lường lận, hại nhau mà chẳng có chút lòng thương xót, chỉ vì vật chất cho nó là
thật có.
Trí
tuệ vô minh rất tai hại, tức là sự hiểu biết không thấu suốt các pháp thế gian.
Có người bảo rằng: “Phải học thông suốt Tam Tạng kinh điển của Phật là hết
vô minh, sẽ được giải thoát hoàn toàn”. Nói như vậy, các ông có bằng tiến
sĩ Phật học là giải thoát hoàn toàn hết sao? Bằng chứng các ông có bằng tiến sĩ
Phật học còn dính mắc hơn ai, sống phạm giới, phá giới. Trong kinh đức Phật đã
chẳng dạy: “Giới luật ở đâu thì trí tuệ ở đó, trí tuệ ở đâu thì giới luật
ở đó, giới luật làm cho trí tuệ thanh tịnh và trí
tuệ làm cho giới luật thanh tịnh”.
Vậy
mà, người ta cho rằng có bằng tiến sĩ Phật học là có trí tuệ. Trí tuệ “Minh”
ở chỗ giới luật thanh tịnh, còn ngược lại trí tuệ tiến sĩ Phật học mà sống
không đúng giới luật, phạm giới luật thì đó là trí tuệ “Vô minh”. Do trí tuệ vô
minh học hỏi, những nhà học giả này chấp ngã bằng Trời hơn ai hết và dính mắc
các pháp khó buông bỏ.
Bỏ
biết bao nhiêu công lao năm tháng học hành, cuối cùng cũng chỉ học nói như một
con chim, để lừa đảo người, buôn Phật, bán pháp, làm cuộc sống trong danh lợi,
ô nhục mà vô minh vẫn hoàn là vô minh.
Ví dụ:
Cho thân này là ngã, hoặc cho tâm là ngã hoặc cho thân này là của ta hoặc cho
tâm này là của ta hoặc cho các dục là hạnh phúc ưa mến, yêu thích nó; hoặc cho
vũ trụ này có thế giới siêu hình, có linh hồn người chết hoặc cho có chư Bồ
Tát, Thần, Thánh, ma quỷ v.v.. phò hộ và phá phách. Cho thế gian này là thường
còn, cho có Đức Phật Di Đà và thế giới Cực Lạc Tây Phương, cho có Phật Tánh, Đại
Ngã, Tiểu Ngã, Bản Thể Vạn Hữu, Bản Lai Diện Mục, cho có Bồ Tát Quán Thế Âm từ
bi cứu độ chúng sanh thoát khỏi khổ nạn, cho có mười vua Diêm Vương, Ngưu Đầu,
Mã Diện, quỷ Vô Thường, quỷ La Sát, quỷ Sứ v.v.. Những sự hiểu lầm lạc tưởng
tri đó gọi là vô minh.
Thường
con người vì hiểu lầm lạc, hiểu không đúng, nên hành động theo sự hiểu biết
không đúng đó mà tạo ra biết bao nhiêu thứ đau khổ và lầm than cho đời mình,
người khác và tất cả chúng sanh.
Vì
vô minh (hiểu không đúng) tưởng sắc dục là khả ái, khả lạc là hạnh phúc nên ham
mê say đắm, đắm đuối chạy theo quyết tìm cho được và hành động dục lạc đó cho
thoả mãn. Do sự hiểu biết lầm lạc đó đi đến hành động thỏa mãn dục vọng nhưng
nào ngờ chẳng thỏa mãn dục vọng đó được mà còn bị đắm nhiễm trở thành một nghiệp
lực rất mạnh.
Chính
những hành động vô minh tạo ra nghiệp lực thúc đẩy đi đến tái sanh luân hồi. Do
nghiệp thiện, ác mới có tái sanh luân hồi, có tái sanh luân hồi mới có thức, do
có thức mà mọi người vì vô minh lầm tưởng cho là thần thức, linh hồn. Gần đây
vào thế kỷ thứ V Thiền Tông phát triển cho thức này là Phật Tánh, nhưng họ khéo
lý luận đánh lạc hướng những người còn vô minh, chứ không thể nào lừa đảo được
những đệ tử của đức Phật.
Từ
vô minh hiểu không đúng như thật, đã đưa con người từ lầm lạc này đến lầm lạc
khác tạo ra thế giới đầy lòng tham muốn cái này, cái nọ để rồi gặt lấy hậu quả
khổ đau vô vàn.
Cho
nên, đức Phật dạy: vô minh sanh hành, hành sanh thức cho đến ưu bi sầu khổ, bịnh,
chết đó là một thế giới duyên hợp tạo thành khổ đau, mà con người mấy ai đã biết.
Kẻ
nào biết được, dứt hết nguồn mê, bỏ xuống tất cả, thì ngay liền đó là giải
thoát. Phàm, Thánh chỉ có khác nhau là ở chỗ này mà thôi. “Phàm thì ôm đồm
chẳng bỏ vật nào cả, Thánh thì buông xuống tất cả không lấy một vật gì”.
Trí
tuệ “Vô Minh” thì ôm đồm, chẳng bỏ vật nào cả, vì thế người
có trí tuệ Vô Minh thì phải chịu khổ đau vô vàn, ngược lại trí tuệ “Minh”
thì buông xuống tất cả, không lấy một vật nào hết, vì thế người có trí
tuệ Minh thì tâm hồn thanh thản, an lạc và giải thoát.
Cho
nên “Minh” là sự hiểu biết đúng như thật, không mang theo tâm ái
dục, hiểu biết không lệch lạc, không chủ quan, đúng như pháp, có khoa học thực
tế, cụ thể, rõ ràng, minh chứng và xác thực v.v..
Nhờ
sự hiểu biết như vậy mà đã đập tan Mười Hai Nhân Duyên này khiến cho cuộc sống
của loài người trên thế gian này được an vui, hạnh phúc.
Người
có Minh thấy các pháp đúng như thật nên hành động thân, miệng, ý tạo nhân quả
thiện, không làm theo tâm ham muốn ác pháp của mình nên cởi bỏ hoàn toàn sự khổ
đau và chấm dứt tái sanh luân hồi.
Người
ngộ được 12 Nhân Duyên này là người phải có trí tuệ Minh, cởi bỏ 12 mắt xích sắt
này được giải thoát hoàn toàn, không còn khổ đau phiền toái. Nhờ trí tuệ Minh
vén sạch ngũ triền cái, bứt bỏ thất kiết sử. Người đó gọi là bậc Duyên Giác hay
còn gọi là Đôc Giác Phật.
Tóm
lại, trí tuệ Vô Minh sẽ đem đến cho loài người khổ đau, tạo nên một thế giới đầy
dẫy bất toại nguyện, còn trí tuệ Minh thì đem lại cho loài người một sự hạnh phúc,
an vui, vĩnh viễn.
Câu hỏi của Diệu Quang
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Có người hiểu biết rất rõ đâu là Vô Minh, đâu là Minh và họ còn là
những người đã từng học hỏi và thông suốt giáo lý của Phật, thế sao họ không
vén sạch ngũ triền cái, bứt bỏ thất kiết sử, tâm họ luôn luôn vẫn còn tham danh
đắm lợi, xin Thầy dạy cho chúng con rõ.
Đáp: Họ
từ Vô minh lầm chấp hiểu Vô Minh giống như người dốt không có học thức, nên chạy
theo học hỏi để thông suốt lời Phật dạy, khi đã thông suốt lời Phật dạy họ đã
trở thành chiếc tủ đựng kinh sách, từ đó bản ngã của họ trở thành to lớn hơn,
nên sự vô minh của họ, họ còn vô minh hơn. Có người cho rằng, trình độ học thức
trên đại học, là những người có trí tuệ, đối với đạo Phật trình độ học thức này
chỉ là một cái bao đựng gạo, chỉ toàn nhai lại bã mía của người khác, chứ không
phải như trí tuệ của Phật đã dạy: “Chỗ nào có trí tuệ chỗ ấy có giới hạnh.
Người có giới hạnh nhất định có trí tuệ, người có trí tuệ nhất định có giới hạnh”.
Đoạn kinh này đã được xác chứng một cách cụ thể trí tuệ của đạo Phật tương quan
giữa sự hiểu biết và đức hạnh rất đặc thù của đạo Phật mà người đời không thể
suy nghiệm ra được. Đó chính là trí tuệ giải thoát hay gọi là tri kiến giải
thoát mà đức Phật thường tán thán trí tuệ này.
Cho
nên sự học thức của thế gian, không phải là trí tuệ, mà là kiến thức vay mượn, vì
thế, có người đỗ bằng tiến sĩ Phật học, tam tạng kinh điển thông suốt, nhưng đối
với đạo Phật đó không phải là trí tuệ mà là kiến thức hữu lậu, càng học hiểu
nhiều lậu hoặc càng sanh nhiều hơn.
Trí
tuệ của đạo Phật được phát triển là ở chỗ biết “xả tâm ly dục ly ác pháp”
chứ không phải chỗ học hỏi nhiều. Vì có xả tâm ly dục ly ác pháp thì giới
luật mới thanh tịnh, giới luật có thanh tịnh thì đời sống mới có đạo đức, mà đời
sống có đạo đức thì ngay đó là trí tuệ, chứ có học hỏi gì đâu?
Họ
đâu biết rằng: Tại sao lại có Vô Minh? Có Vô Minh là vì có “lòng ham muốn”,
do ham muốn mà Vô Minh có, nên đức Phật dạy “ly dục ly ác pháp”
thì Vô Minh sạch, Vô Minh sạch thì gọi là Minh.
Đức
Phật đâu có dạy bảo chúng ta học tập cho thông suốt tam tạng kinh điển hoặc có
cấp bằng này, cấp bằng nọ mà gọi là Minh bao giờ? Xưa, ông Bàn Đặc tối tăm dốt
nát học không thuộc bốn câu kệ, thế mà Đức Phật dạy ông tu hành chứng quả A La
Hán tam tạng kinh điển đều thông suốt, thuyết giảng chẳng thua ai. Đó mới thấy
trí tuệ của đạo Phật rất là đặc thù, người nào muốn có được trí tuệ như Phật
thì hãy sống ly dục ly ác pháp.
Phật
bảo lìa dục lìa ác pháp thì có Minh, người đời hiểu lầm lạc, tưởng là học hỏi
cho nhiều có cấp bằng này cấp bằng kia, do đó từ lớp Vô Minh này chồng lên lớp
Vô Minh khác như trên chúng tôi đã nói. Phần đông đó là các giảng sư của Phật
giáo chúng ta hiện giờ.
Bởi
muốn phá Vô Minh không phải lấy sự học hỏi hiểu biết mà phá được, chỉ có đoạn dứt
“duyên sanh” tức là lìa dục, sanh còn là dục còn, sanh diệt là dục
diệt, dục diệt thì Vô Minh diệt, Vô Minh diệt, tức là Minh sanh. Nên trong kinh
Thập Nhị Nhân Duyên Phật dạy: “Sanh diệt thì Thủ diệt, Thủ diệt thì Hữu
diệt, Hữu diệt thì Ái diệt, Ái diệt thì Thọ diệt, Thọ diệt thì Xúc diệt, Xúc diệt
thì Lục Nhập diệt, Lục Nhập diệt thì Danh Sắc diệt, Danh Sắc diệt thì Thức diệt,
Thức diệt thì Hành diệt, Hành diệt thì Vô Minh diệt, Vô Minh diệt thì Minh
sanh.
Do
đó, Đức Phật ngày xưa dạy người tu cắt ái ly gia, xuất gia, cạo bỏ râu tóc, đắp
áo cà sa, sống không gia đình, không nhà cửa là vậy. Vì vậy, người nào muốn tu
theo Đạo Phật để được giải thoát thì phải dứt lìa “duyên sanh”.
Dứt
duyên sanh, tức là ly gia, cắt ái để trở thành một vị Tỳ Kheo chân chánh. Người
xưa dứt đời tìm đạo để cầu giải thoát, người nay dứt đời tìm đời qua hình ảnh một
lớp áo cà sa của nhà tu để nuôi vợ, nuôi con, nuôi cha, nuôi mẹ, xây mồ mả ông,
bà, dòng họ (hình ảnh một tu sĩ, vị Tỳ Kheo để dễ bề tìm danh tìm lợi, lừa đảo
tín đồ rất dễ dàng).
Cho
nên, theo đạo Phật cái học không phải là Minh, chỉ có sống đúng giới luật hằng
ngày tu tập đúng các loại định:
1. Định Sáng Suốt
2.
Định
Vô Lậu
3. Định Chánh Niệm Tĩnh Giác
4. Định Niệm Hơi Thở
Nhờ
tu các loại định này thực hiện trên Tứ Chánh Cần, ngăn ngừa và đoạn dứt các ác
pháp, khiến cho tâm ly dục ly ác pháp, do đó giới luật không vi phạm, không bị
bẻ vụn, trở thành thân tâm nghiêm trì giới luật.
Giới
luật đã nghiêm túc thì thân tâm thanh tịnh, thân tâm thanh tịnh, tức là thiền định,
nên Phật dạy ly dục ly ác pháp nhập Sơ Thiền, thân tâm có định thì trí tuệ triển
khai, trí tuệ triển khai gọi là Minh.
Người
tu theo Phật giáo ngày nay nghĩ tưởng phá Vô Minh bằng Minh, nên ngay từ lúc
ban đầu theo Minh đi vào để phá Vô Minh bằng sự học thức hiểu thông tam tạng
kinh điển của Phật, đó là một sự hiểu sai lầm rất lớn. Thay vì, phá Vô Minh lại
chồng lên một lớp kiến chấp học thuật, vì thế bản ngã càng to lớn, chẳng chịu
ly dục ly ác pháp, nên tâm không thanh tịnh, do tâm không thanh tịnh, nên không
có định, không có định thì Minh chẳng bao giờ có, Minh chẳng có thì lấy gì phá
Vô Minh, phá Vô Minh chẳng được nên chồng thêm một lớp Vô Minh nữa. Những người
tu sĩ và cư sĩ này giống như một con chim học nói tiếng người, chẳng có ích lợi
gì cho họ cả.
Theo
sự học thức của họ, từ đó họ tu tập thiền định ức chế tâm nên sanh ra nhiều kiến
giải, sản xuất ra nhiều pháp môn thiền định, nhưng toàn là thiền ức chế tâm hoặc
sanh ra những pháp môn tha lực chuyên cúng bái, tụng niệm, cầu khẩn, tế lễ,
v.v.. đưa Phật giáo đến chỗ mê tín, dị đoan, trừu tượng.
Từ
chỗ hiểu lầm lạc dùng trí tuệ phàm phu hữu hạn học hỏi cho là Minh để phá Vô
Minh. Phá Vô Minh chẳng được lại đưa Phật giáo dần dần đi đến tồi tệ hơn mà
ngày nay Phật giáo đã biến thành Thần giáo, Hữu Ngã giáo, Huyền Bí giáo v.v..
Câu hỏi của Chơn Thành
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Thân, thọ, tâm, pháp đều có khổ, lạc, bất khổ bất lạc thọ, ở thế
gian đều phải xả bỏ, ngược lại hỷ lạc, khinh an khi tu tập thiền định sanh ra
thì có cần phải giữ gìn và tăng trưởng hay phải xả bỏ như thế nào?
Nếu
không được giữ gìn và tăng trưởng thì những hỷ lạc này sẽ thối thất, mất mát,
hoặc hao mòn không thưa Thầy?
Đáp: Dục
lạc thế gian là nguy hiểm, là tai họa, là khổ đau v.v.. nên tu theo Phật giáo cần
phải xả ly, xa lìa những thứ dục lạc đó.
Do
tu hành thiền định có lạc, có hỷ, hỷ lạc này tùy theo ở mỗi loại định xuất hiện,
như hỷ lạc của Sơ Thiền do “ly dục” sanh ra. Hỷ lạc này không giống
như hỷ lạc của dục lạc.
Hỷ lạc
của Nhị Thiền do định sanh, hỷ lạc này cao hơn hỷ lạc do ly dục sanh ở Sơ Thiền,
nhưng phải hiểu nó là do định ly dục sanh ra, nó không giống hỷ lạc do thiền định
ức chế tâm như thiền Đại Thừa và Thiền Đông Độ, hỷ lạc của hai loại thiền này
do dục tưởng sanh.
Khi
tâm không còn ly dục thì hỷ lạc của Sơ Thiền liền mất, không còn ly dục, tức là
tâm phóng dật chạy theo các đối tượng của nó: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp.
Tâm
còn ly dục ly ác pháp, tức là tâm còn an trú trong Sơ Thiền, tâm chạy theo dục
lạc, tức là tâm xuất Sơ Thiền.
Khi
tâm còn tịnh chỉ tầm tứ, tức là tâm an trú Nhị Thiền, tâm an trú Nhị Thiền có hỷ
lạc do định sanh. Khi tâm hết hỷ lạc, tức là tâm không tịnh chỉ tầm tứ.
Do
những điều ở trên ta muốn giữ gìn hỷ lạc không cho mất, nếu Sơ Thiền thì phải
giữ gìn tâm không phóng dật, còn Nhị Thiền thì phải giữ gìn cho tâm tịnh chỉ tầm
tứ.
Hỷ lạc
của Sơ Thiền và Nhị Thiền không có tăng trưởng thêm mà chỉ có một mức độ của nó
mà thôi, dù có kéo dài trạng thái hai loại thiền này ra hai, ba ngày, thì sự hỷ
lạc cũng chỉ như vậy, không tăng, cũng không giảm.
Tam
Thiền thì xả sạch hỷ, Tứ Thiền thì xả lạc, xả khổ và xả luôn cả đối tượng của
nó tức là tâm thanh tịnh, nên không có hỷ và lạc của tưởng và thọ nữa, mà là một
trạng thái vắng lặng bất động.
Ở
đây quý vị phải hiểu, hỷ lạc của những bậc Thánh Hiền do từ thiền định xả tâm
ly dục ly ác pháp mà sanh ra. Vì thế, hỷ lạc này không phải thứ cảm giác an lạc
vui mừng của tâm dục lạc thế gian. Quý vị nên lưu ý, bắt đầu vào Sơ Thiền do ly
dục sanh hỷ lạc, nên hỷ lạc này không phải dục mà có, vì thế nó rất thanh tịnh,
trong sạch không uế nhiễm. Đến định sanh hỷ lạc ở Nhị Thiền, hỷ lạc của định Nhị
Thiền là loại hỷ lạc định ly dục, chứ không phải là các thứ hỷ lạc của các loại
định tưởng của thiền Đại Thừa và Thiền Đông Độ, loại hỷ lạc đó là do dục tưởng
sanh ra, nên có khi hiện lại có khi mất, vì thế mà con hỏi cần phải giữ gìn và
tăng trưởng, như vậy con tu hành đã lạc vào tà thiền tà định, cho nên xin Thầy
chỉ dạy cách thức giữ gìn và tăng trưởng hỷ lạc. Thứ hỷ lạc này là bệnh thiền sẽ
đưa hành giả vào cảnh mộng “Phản Bổn hoàn nguyên; Phủ trùm vạn hữu; Thõng
tay vào chợ; Tự tại vô ngại; Đói ăn, khát uống, mệt ngủ”.
Đó
là một thứ bệnh thiền cần phải tránh xa. Hỷ lạc của loại thiền định này, gặp nó
như là gặp loài quỷ La Sát. Khi tu thiền gặp nó, thì quý Thầy cần phải xả ngay
hoặc dùng pháp hướng tâm đuổi đi, đừng để tâm theo nó, nó chẳng có lợi ích gì
cho sự tu tập của quý Thầy mà còn có nhiều tai hại về sau.
Câu hỏi của Chơn Thành
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Khi tu tập các định đã nhập được, sanh ra có trạng thái khinh an, hỷ
lạc, lạc thọ, vui mừng v.v.. thì trưởng dưỡng chúng như thế nào?
Đáp: Muốn
trưởng dưỡng trạng thái khinh an, hỷ lạc, lạc thọ thì phải tập luyện khéo léo
giữ tâm yên lặng trong trạng thái định đó, thỉnh thoảng hướng tâm bằng sự ước
muốn hơn là tác ý thô tháo.
Tại
sao các con lại muốn trưởng dưỡng các trạng thái khinh an, hỷ lạc, lạc thọ đó?
Trong khi đức Phật dạy bảo phải ly hỷ, xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh. Đối
với đạo Phật chỉ cần tìm sự “làm chủ sanh, già, bệnh, chết”, chứ
đâu có đi tìm hỷ lạc, thọ lạc, khinh an như các con vậy. Giữ gìn và trưởng dưỡng
nó để làm gì? Bỏ dục lạc thế gian để đi tìm dục lạc trong thiền định sao? Nó có
lợi ích gì cho đời người? Trạng thái hỷ lạc, khinh an nó có giải thoát cái gì
cho con người đâu? Tại sao các con không đi tìm một “đạo lực” nào
để làm chủ sự sống chết, luân hồi, chấm dứt sự khổ đau của đời người thì đó có
phải là lợi ích thiết thực không? Đi tìm chi cái hỷ lạc của thiền định không ra
gì, ngồi như con cóc để thọ hưởng cái hỷ lạc đó, không lẽ tu hành rồi thành con
cóc sao?
Tu
hành có hỷ lạc cũng tốt, không hỷ lạc cũng tốt. Cớ sao có thì mừng, không có
thì buồn, cho rằng tu không kết quả, chứ đâu biết rằng kết quả của sự tu là tâm
ly dục ly ác pháp, chứ không phải chỗ hỷ lạc, khinh an, lạc thọ.
Ở
đây, quý Thầy cần phải biết phân biệt, khi tu hành tâm có hỷ lạc thì loại hỷ lạc
đó do ly dục sanh hay do ức chế tâm mà sanh ra. Quý vị phải tự suy xét, cuộc đời
tu hành của mình có sống đúng giới luật chưa? Nếu sống không đúng giới luật thì
hỷ lạc của quý vị sanh ra là do dục lạc tưởng, là do loại thiền định ức chế
tâm.
Tu
sĩ thời nay có ai là người sống đúng giới luật đâu? Chỉ chuyên lo tu thiền định,
niệm Phật ức chế tâm sanh ra hỷ lạc, đó là thứ hỷ lạc của dục tưởng, do ức chế
tâm chứ đâu phải hỷ lạc của ly dục.
Thiền
định ức chế tâm sẽ đưa quý vị đi vào chỗ chết, chứ không phải đi vào chỗ giải
thoát. Người tu hành cần phải biết tu cái gì có ích lợi cho mình cho người thì
mới nên tu, tu mà không biết, chỉ nhắm vào ích kỷ cá nhân của mình. Tu hành mà
ích kỷ như vậy thì có ích lợi gì cho mình cho người đâu, thì tu làm chi cho phí
uổng cuộc đời.
Người
tu hành, vì muốn thoát ra bốn sự khổ đau của kiếp làm người, chứ không phải đi
tìm khinh an, hỷ lạc của dục tưởng mà trưởng dưỡng nó, nó có hay không là điều
không quan trọng đối với người tu sĩ đạo Phật.
Người
tu sĩ đạo Phật, khi tu hành phải nhắm vào mục đích như thế nào? phải biết làm
sao? Bằng cách nào? Cho có một đạo lực như thế nào? Để làm chủ sự sống chết
luân hồi, thì mới mãn nguyện. Không lẽ tu hành bỏ dục lạc thế gian, bỏ hết cả
cuộc đời mình mà lại đi tìm dục lạc thiền định hay đi tìm thần thông để làm gì?
Thần
thông thì để lừa đảo, lường gạt thiên hạ; hỷ lạc của thiền định thì để cám dỗ
những người còn ích kỷ cá nhân ham mê dục lạc chỉ riêng cho mình.
Câu hỏi của Chơn Thành
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Xin Thầy chỉ dạy Tứ Chánh Cần, các pháp ác chưa sanh không cho sanh,
các pháp ác đã sanh phải đoạn diệt, các pháp thiện chưa sanh làm cho sanh, các
pháp thiện đã sanh làm cho tăng trưởng.
Nếu
dựa vào bài kinh này, qua ngôn ngữ nói trên mà không có người triển khai thành
pháp hành, để hiểu biết cách thức tu tập theo con đường của đạo Phật, thì khó
có ai tu tập được Tứ Chánh Cần.
Vậy
con xin thưa hỏi Thầy, làm thế nào ngăn chặn và đoạn dứt các pháp ác và làm thế
nào các pháp thiện chưa sanh lại sanh và tăng trưởng chúng?
Đáp: Nếu
muốn tu tập Tứ Chánh Cần, chúng ta cần phải hiểu pháp thiện và pháp ác như thế
nào cho đúng như trong kinh Phật đã dạy?
Pháp
ác thì cũng vô lượng mà pháp thiện thì cũng có vô lượng, do số luợng quá nhiều,
chúng ta làm sao biết đâu mà tu hành cho đúng pháp thiện và pháp ác?
Muốn
biết pháp thiện và pháp ác thì chúng ta phải theo lời Phật dạy trong kinh Thập
Thiện. Kinh này dạy rất rõ có 10 pháp thiện và 10 pháp ác. Lấy mười pháp thiện
và mười pháp ác này áp dụng vào Tứ Chánh Cần thì mới đúng đường lối tu tập mà đức
Phật đã hướng dẫn.
Áp dụng
vào Tứ Chánh Cần, trước tiên chúng ta phải hiểu có bao nhiêu pháp thiện và có
bao nhiêu pháp ác? Pháp thiện như thế nào? Và pháp ác như thế nào?
1-
Không giết hại chúng sanh, không xúi bảo người giết hại, thấy người
giết hại không vui theo, thường can ngăn người giết hại chúng sanh.
2-
Không gian tham trộm cắp lấy của không cho,… dù cây kim sợi chỉ, vật
nhỏ mọn nhất nếu người không cho thì không bao giờ lấy.
3-
Không tà dâm, có nghĩa là chồng hay vợ không được gian dâm với người
khác, vì gian dâm với người khác tạo ra cảnh bất an cho gia đình mình và gia
đình người khác, khiến tan nát cả hai gia đình, đó là một ác pháp làm đau khổ
mình và đau khổ người và khổ cho con cái của chúng ta.
4-
Không nói dối, có nghĩa là chuyện có nói có, chuyện không nói
không, chứ không lừa đảo, lường gạt người khác bằng miệng lưỡi.
5-
Không nói lưỡi hai chiều nghĩa là không nói lật lọng, tức là không
nói qua nói lại.
6-
Không nói lời thêu dệt nghĩa là đến chỗ này nói xấu chỗ kia, đến
chỗ kia nói xấu chỗ này.
7-
Không nói lời hung ác nghĩa là không nói lời dữ tợn, không chửi rủa
người khác, không nói lời chửi thề, không nói lời tục tĩu.
8-
Không ham muốn, nghĩa là không tham muốn những gì mình chưa có, dù
mình đã có vật đó cũng không tham muốn.
9-
Không sân hận nghĩa là không tức giận, giận hờn ai hết.
10-
Không si mê nghĩa là không tham ăn, tham ngủ, không làm khổ mình,
khổ người, tránh xa các pháp ác, lìa tất cả lòng tham muốn của mình, luôn luôn
sống không làm khổ người khác và không làm khổ tất cả chúng sanh.
Ngược
lại là 10 pháp ác, bây giờ chúng ta đã rõ 10 pháp thiện và 10 pháp ác, nếu ngăn
chặn và đoạn diệt 10 pháp ác được thì ngay đó là sanh khởi và tăng trưởng 10
pháp thiện. Muốn được vậy, chúng ta phải ở trên pháp nào để tu tập cho có kết
quả?
Như
đức Phật đã dạy: Trên pháp Tứ Niệm Xứ chúng ta quán thân trên thân tu về hành
tướng ngoại, tức là tu trong các hành động của thân (Thân Hành Niệm ngoại). Tu
về Thân Hành Niệm ngoại, tức là tu “Chánh Niệm Tĩnh Giác Định”. Đó
là một pháp môn ngăn các pháp ác tuyệt vời.
Nếu
trên thân quán thân tu về hành tướng nội, thân hành niệm nội, tức là hơi thở. Nếu
tu về hơi thở thì coi chừng chúng ta sẽ bị lầm lạc tu vào những pháp môn của
các Tổ như: Sổ Tức Quán, Lục Diệu Pháp Môn v.v.. Đó là những pháp môn hơi thở
tu ức chế tâm, còn tu về hơi thở của đạo Phật thì không phải là những pháp môn
này. Trong kinh sách Nguyên Thủy gọi pháp môn hơi thở này là “Định Niệm Hơi Thở”,
Định Niệm Hơi Thở cũng là một pháp môn ngăn ác diệt ác pháp tuyệt vời.
Hai
loại thiền định này là pháp môn ngăn chặn mười pháp ác, nếu hành giả siêng
năng, chuyên cần, tinh tấn tu tập thì các pháp ác không xen vào được trong tâm
mình. Vì thế, tâm không phóng dật, luôn hướng vào trong thân và định vào thân,
tâm hồn hành giả lúc nào cũng thanh thản, an lạc và vô sự, cuộc sống trở thành
trầm lặng, thánh thiện và độc cư.
Nếu
các pháp ác đã sanh làm cho tâm hồn đau khổ, phiền toái, buồn lo, giận hờn
v.v.. thì phải mau lo đoạn diệt. Vậy đoạn diệt các pháp ác bằng pháp môn nào?
Nếu
muốn đoạn diệt các pháp ác thì phải tu pháp môn “Tứ Niệm Xứ”.
Tu pháp môn Tứ Niệm Xứ là phải ở trên thân quán thân tu về nhân tướng, tức
là tu về “Định Vô Lậu” quán xét thân, thọ, tâm và các pháp bằng “luật
nhân quả”; bằng “Tam pháp ấn” vô thường, khổ, vô ngã,
v.v..; bằng quán Thập Nhị Nhân Duyên; bằng quán Tứ Diệu Đế; bằng quán Thân Ngũ
Uẩn không phải là ta, là của ta, là bản ngã của ta và bằng quán thân, thọ, tâm,
pháp bất tịnh, hôi thúi, uế trược, bẩn thỉu v.v..
Nhờ
có tu tập như vậy, các pháp ác mới đẩy lui được, mới đoạn dứt được, mới đem lại
sự thanh bình cho tâm hồn, mới làm nên một cuộc cách mạng tư tưởng, mới chiến
thắng được tâm mình, “Thắng trăm trận không bằng chiến thắng tâm mình”. Lời
Phật dạy như vậy.
Khi
ngăn chặn được các ác pháp thì tâm bây giờ lúc nào cũng ở trong thiện pháp, ở
trong thiện pháp, tức là sanh trưởng thiện pháp. Nói cách khác là ngăn chặn ác
pháp tức là sanh trưởng thiện pháp. Như kinh Thập Thiện dạy: Mười ác pháp không
có mặt tức là mười thiện pháp có mặt.
Như
vậy, ta chỉ cần ngăn chặn 10 điều ác, tức là ta đã sanh khởi 10 điều thiện, hay
nói một cách khác nữa, ngăn chặn 10 điều ác là một tên khác của sự sanh khởi 10
điều thiện.
Đoạn
dứt ác pháp, tức là tăng trưởng thiện pháp, nói một cách khác là tăng trưởng
thiện pháp là tên khác của sự đoạn dứt ác pháp.
Tóm
lại ngăn chặn ác pháp thì phải tu Định Niệm Hơi Thở và Định Chánh Niệm Tĩnh
Giác.
Muốn
đoạn dứt các ác pháp thì phải tu Định Vô Lậu. Có tu tập như vậy, thì “Đường
Về Xứ Phật” mới xứng đáng là đạo lộ cho những người đệ tử của đức Phật
bước đi. Dù có gian nan, có khó nhọc đến đâu, nhưng tương lai vẫn sáng chói huy
hoàng. “Đường Về Xứ Phật” sẽ đưa đường dẫn lối cho quý vị đến nơi đến chốn giải
thoát hoàn toàn.
Câu hỏi của Chơn Thành
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Người đang tu chưa chứng đắc được gì về pháp môn giới, định, tuệ mà
vội lập đạo tràng để giảng đạo cho các người khác tu tập, thì số phận người giảng
sư lẫn các hành giả sẽ đi về đâu trên đường tu tập? Xin Thầy chỉ dạy cho chúng
con được rõ.
Đáp: Chẳng
đi đến đâu cả, giống như một người mù dắt đường cho tất cả những người mù khác
để ra khỏi rừng sâu, núi thẳm nhưng không ngờ mọi người đều sa hầm, lọt hố và
chết chìm nhau cả đám.
Con
người vì đắm mê danh, lợi, tu chưa tới đâu, mà vội đem ra dạy người là người
“háo danh”, người tham danh mà Thầy thường gọi là “Tưởng giải”.
Kinh
sách Đại Thừa dạy: “Một người vừa tu vừa dạy người khác tu là Bồ Tát độ
chúng sanh”. Kinh sách này khuyến khích những vị Tỳ Kheo và những cư sĩ
thọ Bồ Tát giới, thực hiện Bồ Tát Hạnh. Nghĩa là tu sĩ vừa tu vừa hành Bồ Tát đạo,
tức là mình vừa tu vừa dạy người khác tu, còn cư sĩ vừa học tu lại vừa bố thí,
cúng dường và làm việc từ thiện, cũng có khi dạy người khác tu hành như cư sĩ
Tâm Minh và Đoàn Trung Còn. Thật là đau lòng cho Phật Pháp, người ta lấy sự học
mà dạy đạo, chứ không phải lấy sự tu chứng mà dạy. Vì thế, Phật giáo đi dần về
phía tà đạo, không có người tu chứng nữa. Kinh sách này dạy như vậy có đúng đường
lối của đạo Phật hay không?
Không,
đức Phật dạy người phải tu cho mình được giải thoát xong rồi mới dạy người khác
tu. Trường hợp như ông Phú Lâu Na khi tu xong đến xin đức Phật đi độ chúng
sanh, đức Phật trắc nghiệm thấy ông đủ khả năng độ chúng sanh, liền chấp nhận
cho Ngài đi. Đó là sự cân nhắc rất kỹ của đức Phật khi người đệ tử ra đi làm lợi
ích cho chúng sanh, nếu không trắc nghiệm và cân nhắc như vậy thì một vị Thầy,
tu hành chưa xong mà vội ra hướng dẫn người tu hành thì đó là giết người và giết
nhiều thế hệ con người vì mình chưa đủ đạo đức làm gương sáng và kinh nghiệm dạy
đạo. Dạy người bằng miệng lưỡi nói được mà mình làm không được, tức là nói láo,
hầu hết các giảng sư hiện giờ đều dạy người tu nói láo như vậy.
Bởi,
kinh sách Đại Thừa đã truyền thừa cho đến nay, đối với tu sĩ Phật giáo tu hành
chẳng ra gì, đời chẳng ra đời, đạo chẳng ra đạo, chỉ toàn là những hạng người
chạy theo danh lợi, buôn Phật, bán Pháp làm chuyện tồi tệ, phi đạo đức chỉ cần
dùng những danh từ “Tu Bồ Tát đạo, Hành Bồ Tát hạnh” là cao thượng,
là bịt miệng tín đồ dễ dàng.
Ngoài
đời, người ta muốn làm một việc gì, thì cũng phải học tới nơi tới chốn, mới làm
nên việc đó. Ví dụ: Như muốn làm một bác sĩ thì phải học 7, 8 năm, sau khi tốt
nghiệp ra trường y khoa mới chính thức là một vị thầy thuốc, chừng đó mới trị bệnh
thiên hạ, nếu vừa học vừa làm bác sĩ trị bệnh, thì chắc chắn không trị bệnh
nhân mà là giết bệnh nhân, cũng như các giảng sư Đại Thừa Phật giáo bây giờ là
vậy, giống như con chim học nói tiếng người, nói mà chẳng biết gì cả. Chẳng tu
mà dạy người tu, thì cũng giống như một người mù dắt bầy người mù đi.
Câu hỏi của Chơn Thành
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Xin Thầy chỉ dạy, người đang tu mới chứng đắc được phần nào đó, mà vội
lập đạo tràng để dạy người, thì hậu quả của người tu chưa xong này sẽ dẫn họ tới
đâu? Và phần chứng đắc được, liệu có giữ gìn được trọn vẹn hay không?
Và
những người học theo giáo pháp của người dạy này, liệu có đúng như lời Phật dạy
chăng? Tương lai cả những người học tu này có ích lợi gì cho họ?
Đáp: Con
đường tu tập theo đạo Phật khó khăn vô vàn, người tu chưa tới đâu hoặc chứng đắc
một phần nào trong các pháp hành của đạo Phật mà vội đem ra dạy người, cũng ví
như người học nghề thầy thuốc tay nghề chưa rành mà đi ra trị bệnh cho người
khác thì chỉ có giết người hơn là cứu người. Cũng giống như người hướng đạo
viên không thông đường xá, chỉ biết có một ít lại dẫn người vượt suối băng ngàn
thì làm sao ra khỏi rừng sâu núi thẳm, chỉ còn chết chung nhau giữa rừng già mà
thôi.
Bởi
vậy, tu phải đến nơi đến chốn có đủ kinh nghiệm rồi mới hướng dẫn người khác
tu. Ở đời người ta xem sự tu hành quá dễ dàng, cho nên đụng đâu dạy người ta tu
đó, đó là dạy tu vào con đường chết, chứ không phải giải thoát.
Tu
chưa đến nơi đến chốn, tức là tâm chưa giải thoát hoàn toàn, thì tâm ham muốn
và ác pháp còn dẫy đầy mà vội ra làm Đạo sư thì danh lợi với sắc dục sẽ cám dỗ
và lôi cuốn đi sâu vào các ác pháp thế gian khiến cho người này giới luật bị bẻ
vụn, phạm giới, đức hạnh không có. Bây giờ tâm ly dục ly ác đã mất hết, chỉ còn
lại tâm phóng dật chạy theo sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Do thế hình ảnh
thì còn là người tu sĩ mà tâm thì phàm phu tục tử, sống bằng những danh từ lừa
đảo tín đồ qua sự thuyết kinh giảng đạo từ bài kinh này đến bài kinh khác, pháp
hành thì mù mờ loanh quanh không có rõ ràng, chỉ dùng một số ngôn ngữ xảo thuật
cho thật kêu để phỉnh gạt người khác dễ dàng.
Những
người theo những giảng sư này tu hành, chẳng đi đến đâu giống như con chó gặm
xương, bỏ thì tiếc, nhai thì chẳng có gì lợi ích, phí cả cuộc đời, chẳng ích lợi
gì cho mình cho người mà còn thêm tổn phước đức về tội vọng ngữ (nói láo ăn tiền).
Đối
với đạo Phật, những hạng người không tu mà dạy đạo, chỉ đem ngôn thuyết lừa đảo
thiên hạ để mua danh mua lợi, thì tội đọa địa ngục muôn kiếp, chứ làm gì có chứng
đắc, nhìn thấy cuộc sống của họ phạm giới luật, phi đạo đức, tức là phi Phạm hạnh,
chỉ có ba hoa ngoài đầu môi chót lưỡi. Nếu ai đi tìm cầu sự giải thoát của đạo
Phật mà gặp các vị Đạo sư này thì chỉ còn có nước đi chung nhau xuống địa ngục
A Tỳ tìm vua Diêm Vương, chứ không tìm giải thoát được.
Ở
đây, quý vị đừng hiểu địa ngục A Tỳ là một cảnh giới siêu hình để hành phạt những
linh hồn tội lỗi. Địa ngục A Tỳ ở đây có nghĩa là cuộc sống của con người tại
thế gian này đang chịu đựng những sự khổ sở tận cùng.
Ví dụ:
Bệnh bán thân, nằm, ăn, đại, tiểu tiện một chỗ; bệnh ung thư đau nhức khổ sở; bệnh
cùi ngứa, đau nhức và chịu hôi thối; bệnh thần kinh la hét chẳng biết chi hết,
vì thế người bị bệnh này bị nhốt như một con thú vật không khác hoặc chúng ta
đi vào những bệnh viện thấy những bệnh nhân nằm la liệt đau khổ vô cùng. Đó là
địa ngục tại trần gian chứ không phải là sự tưởng tượng địa ngục thế giới siêu
hình của con người mà từ lâu người ta đã bị các tôn giáo lừa đảo. Chỉ riêng có
đạo Phật chỉ thẳng là không có thế giới siêu hình, sau này Phật Giáo Đại Thừa
và Thiền Đông Độ mới xây dựng thế giới siêu hình vĩ đại hơn tất cả các tôn giáo
khác.
Câu hỏi của Chơn Thành
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Con xin Thầy dạy bảo, người đã tu xong mà sống phóng dật tâm
buông lung, không giữ gìn phạm hạnh, không giữ gìn giới luật trọn vẹn, liệu những
điều chứng đắc có còn giữ được không?
Đáp:
Không, người tu xong đã chứng đắc thì không thể nào sống buông thả phóng dật
theo tâm ham muốn, Phạm hạnh không có và giới luật không nghiêm chỉnh. Chẳng hề
có một người tu đã chứng đạo nào, mà lại sống trái đạo bao giờ.
Chỉ
có những người tu chưa xong, tâm còn phóng dật buông lung, nên không giữ gìn Phạm
hạnh và giới luật được, những người này tu hành chưa chứng đắc gì cả, họ chỉ là
những người lừa đảo người khác mà thôi. Kinh Phật dạy: Đó là những người “Đại
vọng ngữ, Tăng thượng mạn”.
Những
người tu chưa chứng đắc, cuộc sống thường phạm giới, Phạm hạnh không có, thường
sống buông lung phóng dật, chạy theo danh lợi thế gian, chỉ mượn chiếc áo cà sa
của đạo Phật để tạo cuộc đời mà thôi, thường dùng những danh từ của các Tổ “Tự
tại vô ngại” để che đậy. Họ lừa đảo bằng những sự vay mượn kiến giải
kinh nghiệm của người khác rồi cho đó là của mình.
Những
người này là những con sâu làm rầu nồi canh, là những con bọ chét trong lông sư
tử, là Ma Ba Tuần, là quỷ La Sát thể hiện làm suy tàn Phật giáo. Chúng đã đưa
ra nhiều thuyết để diệt Phật giáo: nào là ngày tận thế sắp đến năm 2000 ; nào
là Đức Phật Di Lặc ra đời; nào là Hội Long Hoa; nào là Đức Phật Thích Ca hết
nhiệm kỳ v.v..
Đó
là những điều lừa đảo, lường gạt người khác, khiến cho mọi người khiếp đảm và sợ
hãi, không còn muốn làm việc. Bởi, bọn Ma Vương lộng hành, khi đạo Phật không
có người tu chứng, chúng muốn nói như thế nào tùy ý, chẳng sợ ai biết được và
có biết cũng chẳng có ai dám vạch mặt, vạch tên chúng, nên chúng tự do muốn nói
Đông, nói Tây, nói sai, nói đúng chẳng ai dám cãi, dám bàn, dám phê bình v.v..
Để
chứng minh cho quý vị thấy, một trong những nhà học giả tu hành chưa đến nơi đến
chốn, như ở Miến Điện (Malaysia) và Thái Lan, họ đã dám cả gan đem kinh nghiệm
tu chưa đến đâu, và sự tu hành đó chưa đúng như lời Phật đã dạy trong các kinh
Nguyên Thủy, thế mà họ đã dám dạy cho người khác, thật là một tai hại rất lớn
cho những tín đồ Phật giáo đang hướng về Phật pháp với một niềm tin sâu sắc
không lay chuyển. Với sự tu hành đó, do đã lạc vào pháp tưởng, tưởng giải, họ
đã dám truyền sang qua Tây Úc và các nước Tây Phương, ngay cả nước Việt Nam những
bài kinh đó cũng được dịch sang Việt ngữ đã được đăng trên nguyệt san báo Giác
Ngộ số 23 tháng 2 năm 1998 đề tựa “Samadhi, Quán Niệm Hơi Thở”.
Bốn
Thánh Định của đạo Phật, khi chưa biết cách tu, chưa biết cách nhập và chưa nhập
được, thì đừng nên tưởng giải ra theo kiểu tu thiền hơi thở ức chế tâm như các
Tổ đã dạy, mà dạy người tu nhập Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền và Tứ Thiền như
trong bài báo này, thì đừng mong có kết quả giải thoát, chỉ phí công tu vô ích,
như đức Phật đã dạy: “Nhập phi tưởng phi phi tưởng xứ để mà biết phi tưởng
phi phi tưởng xứ, chứ chẳng có ích lợi gì”.
Biết
bao nhiêu người đang tu theo đạo Phật, khi đọc bài này, họ làm sao biết được lời
dạy trong đây đúng hay sai? Họ cứ tin tưởng vào các ông học giả này là hành giả
đã tu chứng, nhập được Bốn Thánh Định. Nếu không có ai nhập được Bốn Thánh Định
thì các ông này lừa đảo, nói dối, gạt người thì còn ai biết được để đính chính
sự tu hành của các ông?
Vì
không có ai tu chứng Bốn loại Thánh Định này, nên các ông dễ lừa đảo người
khác, bằng chứng, báo Nguyệt San Giác Ngộ đã có những cây bút giáo pháp tên tuổi
của các bậc tôn túc Hòa Thượng, Thượng Tọa Phật Giáo Việt Nam, mà bài này vẫn
qua mặt được các Ngài và đã được phép đăng trên báo, thì đủ biết Tứ Thánh Định
này chưa có ai tu chứng cả.
Như
chúng tôi thường nhắc nhở quý vị, thiền định của đạo Phật không giống bất cứ một
loại thiền định nào của các tôn giáo trên hành tinh này. Nó không phải ngồi ức
chế tâm bằng hơi thở hoặc bằng bất cứ một đề mục thiền nào, mà nó chỉ có mục
đích phải xả tâm bằng cách sống đúng giới hạnh, không phạm phải một giới luật
nhỏ nhặt nào, luôn luôn sống đúng Phạm hạnh của một vị Thánh Tăng, thì mới gọi
là xả tâm.
Khi
tâm giữ gìn giới luật trọn vẹn, sống đúng Phạm hạnh, đầy đủ đức hạnh nhân bản
nhân quả, thì giới luật mới thanh tịnh; giới luật có thanh tịnh thì tâm mới
thanh tịnh; tâm mới thanh tịnh thì tâm mới ly dục ly ác pháp; tâm có ly dục ly
ác pháp thì tâm mới nhập Bất Động Tâm Định. Nhập Bất Động Tâm Định thì tâm mới
có Tứ Thần Túc, nhờ có Tứ Thần Túc thì tâm mới nhập được Sơ Thiền, đó là Thiền
Thứ Nhất mà trong kinh sách Phật đều dạy như vậy. Thế mà các nhà học giả lại dạy
theo các Tổ Sư Thiền Đông Độ và Thiền Đại Thừa theo pháp môn Sổ Tức Quán và Tùy
Tức để tìm định tướng của định, rồi tự đặt cho nó là Sơ định.
Nếu xét cho cùng thì hai lối dạy tu Bốn Thánh Địn